(VNGL – Ghi chép). Đã 60 năm tròn kể từ ngày Chiến dịch Plei Me khép lại. Thời gian như dòng suối giữa miền sơn cước Chư Prông, trôi miết vô hồi, cuốn theo bao đổi thay. Chỉ có ký ức những người lính là vẫn ở đó, rực nóng như than trong tro, chỉ một làn hơi phả vào là sáng bừng lên thành vệt, những vệt ký ức không mờ phai.
Bước ngoặt Chư Prông
Một sáng trung tuần tháng 11, Chư Prông se lạnh. Cơn mưa lây rây khiến con đường từ Pleiku vào Nghĩa trang liệt sĩ Chư Prông như đắm trong một màn sương mỏng, bảng lảng hơi đất rừng. Từng giọt mưa rơi mềm trên mặt đường, như thể trời đất Tây Nguyên cũng đang chùng xuống hồi tưởng về một thời hoa lửa kiêu hùng, thời mà Chiến dịch Plei Me đã đi vào sử sách bằng máu, nước mắt và sự quyết liệt hiếm có. Tôi dừng chân rất lâu ở một góc Chư Prông, để nghe gió núi lùa qua vai áo, mang theo mùi ẩm ngai ngái của lá mục và đất rừng sau đêm mưa, lững thững trong câu chuyện kể của những người lính đã gửi tuổi thanh xuân nơi rừng núi Chư Prông.
Tháng 9.1965, Mỹ đưa Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 và một lữ đoàn dù thuộc Sư đoàn 101 lên chiếm giữ An Khê, nhằm chia cắt Tây Nguyên với đồng bằng duyên hải miền Trung, cắt đứt nguồn chi viện từ Bắc vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh và từ đất Lào sang. Trước âm mưu đó, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên thay đổi chủ trương tác chiến: tạm rời hướng giải phóng Bắc Tây Nguyên để tập trung lực lượng đánh chiến dịch Plei Me – vừa tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực Sài Gòn, vừa “lôi” quân Mỹ vào trận, thử khả năng tác chiến của họ và xây dựng cách đánh Mỹ cho bộ đội ta.
Lực lượng tham chiến gồm ba Trung đoàn Bộ binh 320, 33 và 66, cùng đặc công, pháo binh, súng máy phòng không 12 ly 7 và lực lượng vũ trang địa phương. Đến 10 giờ ngày 26.11.1965, dưới sự yểm trợ ào ạt của pháo binh và không quân, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 42 ngụy quân mở cuộc tấn công lớn. Địch tin rằng thế trận đã xoay chuyển. Nhưng chính thời điểm đó, Bộ Tư lệnh ta nhận định đã tạo được “phản ứng dây chuyền”, lập tức chủ động mở vây Plei Me, điều toàn bộ Trung đoàn 33 và 320 vòng xuống hướng Đông Nam sông Ia Đrăng, sẵn sàng đánh quân Mỹ đổ bộ. Mặt trận căng như dây đàn. Quân Mỹ tin rằng ưu thế cơ giới, hỏa lực cùng tốc độ cơ động đường không sẽ khiến bộ đội ta bị động, rời rạc và tan vỡ. Nhưng Tây Nguyên không phải chiến trường dễ dàng cho những kẻ ỷ mạnh. Đáp lại sự ồn ào của động cơ và tiếng đại bác, là những bước chân âm thầm, những đôi vai đẫm sương và những đôi mắt ráo hoảnh của người lính Cụ Hồ. Họ men theo lối mòn, dựng điểm phục kích ở những nơi Mỹ không ngờ tới.
Cuộc chạm trán dữ dội nhất nổ ra chiều 14.11.1965. Các cánh quân Mỹ vừa đặt chân xuống Ia Đrăng đã bị Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 đột kích thẳng vào đội hình, tiêu diệt gọn một đại đội. Ngày 15.11, Tiểu đoàn 7 tiếp tục đánh tan đại đội thứ hai. Thế trận chuyển rất nhanh, rất mạnh, đầy chủ động – đối nghịch hoàn toàn với sự chủ quan và ngạo mạn của quân Mỹ trước đó.
Khi Tiểu đoàn 1 Mỹ bị xóa sổ, ta lập tức chuyển hướng bao vây Tiểu đoàn 2 của Sư đoàn Kỵ binh. Mỹ buộc phải đưa quân ngụy đổ xuống Ia Pơma và Ia Lâu để giải cứu. Nhưng ngày 18.11, vừa chạm đất, hai chiến đoàn dù liền rơi vào ổ phục kích của Trung đoàn 320. Tây Nguyên đã “khước từ” ưu thế của trực thăng và cơ động nhanh. Bộ đội ta chọn cách “bám thắt lưng địch mà đánh”, triệt tiêu mọi lợi thế của đối phương. Có nơi khoảng cách giữa hai bên chỉ vài chục mét. Đạn lao đi rít lên sát mặt đất. Những tấm lưng trần nằm áp sát đường mòn, luồn qua từng gốc cây, từng ụ mối…, đánh ngay khi địch chưa kịp ổn định đội hình.
Ngày 19.11.1965, toàn bộ quân Mỹ rút khỏi thung lũng Ia Đrăng, rời nơi họ từng tin rằng hỏa lực và máy bay sẽ nghiền nát mọi thứ. Sau hơn một tháng chiến đấu chủ động, liên tục tiến công với chiến thuật “vây đồn – đánh viện”, quân chủ lực ta cùng lực lượng địa phương và dân quân đã đánh bại gần như hoàn toàn hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 – đơn vị tinh nhuệ bậc nhất của Mỹ lúc bấy giờ. Đây là chiến dịch đầu tiên quân dân ta đánh thắng Mỹ trên chiến trường miền Nam, mở ra bước ngoặt lớn về niềm tin, chiến thuật và thế trận.

Tại Hội thảo khoa học “Chiến thắng Plei Me – Tầm vóc, ý nghĩa và bài học lịch sử” ngày 18.11, Thượng tướng, TS Lê Huy Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, lần nữa khẳng định: “Chiến thắng Plei Me có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mở ra khả năng đánh bại quân xâm lược viễn chinh Mỹ, khẳng định hiệu quả của phương châm “nắm thắt lưng địch mà đánh” của quân và dân miền Nam; củng cố quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ của Nhân dân ta; là chỉ dấu thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ; đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về ý chí quyết tâm, về trình độ chỉ huy, khả năng tác chiến của các lực lượng vũ trang, là sự đóng góp lớn lao của lực lượng vũ trang địa phương cùng đồng bào dân tộc các tỉnh Gia Lai, Quảng Ngãi, Đắk Lắk”.
Trong số những người mang vết thương tâm lý từ Ia Đrăng, có Trung tá Harold G. Moore – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 7 Kỵ binh Mỹ. Ngày 19.10.1993, ông trở lại chiến trường xưa. Khi nhìn tấm bản đồ tác chiến của quân ta do Thượng tướng Nguyễn Hữu An cung cấp, Moore lặng người. Suốt gần ba mươi năm, ông tin rằng lính Việt Nam đã tấn công theo “chiến thuật biển người”, quân số gấp 7 lần Mỹ. Nhưng sự thật khiến ông sốc: tỷ lệ lực lượng giữa hai bên là 1/1. Không có biển người. Chỉ có quyết tâm, mưu trí, kỷ luật và nghệ thuật tác chiến của một đội quân chiến đấu vì độc lập dân tộc.
Trong hồi ký Đã một thời chúng tôi là những người lính… và trẻ trung (1993), Moore viết: “Trong vòng 20 phút báo cáo của tôi, tôi đã làm hết sức mình để truyền đạt cho McNamara và đoàn tùy tùng của ông một bức tranh sống động về những người lính Bắc Việt Nam – những người đã chiến đấu chống lại chúng tôi ở X-Ray: có tính kỷ luật cao, kiên quyết tới mức quyết tử và cụm lại ở trên núi với một số lượng mà tôi chưa từng gặp kể từ chiến tranh Triều Tiên”. Lời thú nhận ấy không chỉ nói về thất bại của Mỹ, mà còn là lời khắc lên đá núi Tây Nguyên một điều, rằng, người lính Việt Nam có thể ít đạn, ít súng, nhưng giàu ý chí; không “ồn ào” trong hình thức, nhưng sắc lạnh trong bản lĩnh; và biết chiến thắng bằng trí tuệ, sự gan lì và lòng không lùi bước trước bất kỳ kẻ thù cướp nước nào.
Ký ức người lính
Sáng 19.11 năm nay, trong tiếng mưa rơi trên những tấm bia liệt sĩ, tôi gặp những cựu binh, những nhân chứng sống của chiến dịch lừng lẫy năm xưa. Ân cần đi thắp từng cây nhang ở các mộ phần, cựu chiến binh Hoàng Oanh (ở Hà Nội) luôn miệng khấn vái, các đồng chí yên nghỉ, mong các đồng chí phù hộ cho Nhân dân, cho đất nước mình, có dịp rồi chúng tôi lại về thăm anh em. Ông Oanh kể, ông vốn là cựu chiến binh ở Sư đoàn 1, gắn bó với mặt trận Tây Nguyên thời gian dài, được bà con, người dân ở đây đùm bọc, tình nghĩa dày sâu không gì tả xiết. “Hôm nay, có 17 cựu binh ở Sư đoàn 1 từng trực tiếp tham gia Chiến dịch Plei Me – Ia Đrăng về đây, thăm lại chiến trường xưa. Nơi đây, là một phần tuổi trẻ của chúng tôi. Nơi mà có những người bạn một thời chung lưng đấu cật đã mãi mãi nằm lại”, ông nói. Tôi dõi theo tấm lưng to bè của ông Oanh trong làn mưa lất phất bay, còn nhớ mãi lời ông nói “tìm mãi thằng Cuộc, thằng Nghinh mà không thấy tụi nó đâu”… Và tôi hiểu rằng, hai người lính ấy, đã mãi nằm lại ở vùng đất Chư Prông này…
Tại nghĩa trang, tôi nhìn thấy một cựu binh đứng rất lâu trước một hàng mộ. Ông không nói gì. Chỉ khẽ đặt bàn tay run run lên tấm bia, như đang vuốt lại một phần tuổi hai mươi còn nằm ở đây. Ông là Nguyễn Văn Chữ (ở Hà Nội), đã từng trực tiếp tham gia chiến dịch, giọng ông lắng xuống: “Ngày ấy, chúng tôi mới chỉ là những chàng trai mười tám, đôi mươi. Trận Plei Me, tiểu đội tôi hy sinh hết, chỉ còn hai người. Khi nào có dịp, chúng tôi lại về đây với anh em”.

Tôi gặp được hai nhân chứng sống của Chiến dịch Plei Me, những người lính của Trung đoàn 66 năm xưa: ông Nguyễn Văn Lừng (quê Hà Nội) và ông Phạm Văn Đắc (quê Thanh Hóa). Ông Lừng đã ngoài tám mươi, dáng người gầy, râu bạc phơ rũ xuống ngực còn ông Đắc đã nghễnh ngãng nên hễ tôi hỏi ông điều gì thì ông Lừng lại nghiêng người trả lời thay bạn…
Khi nhắc về Chiến dịch Plei Me, ký ức của người lính già bỗng tràn về như dòng suối. Ông Lừng kể chậm rãi, từng chi tiết hiện lên rõ rệt như mới hôm qua: “Ngày đó, Trung đoàn 66 của chúng tôi vừa men theo sông Ia Đrăng thì máy bay Mỹ đã dội bom phát quang những vạt cỏ voi quanh bãi đáp. Trước khi đổ quân, chúng còn quần thảo, ném bom xé rừng để dọn sạch mọi thứ có thể che giấu quân ta. Đoán đúng ý đồ địch, Bộ Tư lệnh B3 lệnh cho Tiểu đoàn 8 vào vị trí giáp trận. Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi bố trí Đại đội 6 và Đại đội 7 ém quân trong rừng, chờ đúng khoảnh khắc trực thăng Mỹ vừa chạm đất, đội hình chưa kịp chỉnh, thì đồng loạt nổ súng”. Rồi ông dừng lại rất lâu khi nhắc tới người tiểu đoàn trưởng năm xưa, người mà sự hy sinh vẫn khiến giọng ông rưng rưng: “Anh Phôi người thanh mảnh, da trắng, trông có vẻ thư sinh, nhưng đánh nhau thì dũng cảm lạ thường. Vào trận, anh đi khắp nơi, khẩu K54 đeo trễ bên hông, tay cầm cây gậy chỉ huy. Tôi còn nhớ như in… cây gậy đang giơ lên, bất chợt khựng lại rồi rơi xuống… và anh ngã ra”.

Sau trận Ia Đrăng, ông Lừng và hai đồng đội, Nhảy và Tầm, xung phong đi làm công tác tử sĩ. Tưởng rằng kẻ địch sẽ tạm ngừng oanh tạc sau trận đánh đẫm máu, nhưng không ngờ, chính những giây phút lầm tưởng yên bình ấy lại là thời khắc cái chết áp sát nhất. “Không thể bỏ mặc đồng đội. Tôi tính cõng Tầm đi. Vừa gập người thì nghe tiếng máy bay Mỹ chúi xuống. Nghe tiếng gầm đó là biết… nó sắp ném bom rồi”, ông Lừng hồi tưởng. Ông Lừng kéo hai đồng đội lăn xuống sau một thân cây mục bên bờ suối. Tiếng bom nổ “ầm” như xé rách cả bầu trời. Đất đá đổ ập xuống, tối sầm mọi thứ. Khi mở mắt, ông thấy mình ở bệnh viện, hai tai điếc đặc, thất khiếu rỉ máu. Còn Nhảy và Tầm, những người mới còn thở cạnh ông, đã mãi mãi nằm lại giữa rừng sâu. Nhắc đến đó, đôi mắt người lính già đỏ hoe, không kiềm được xúc cảm dâng lên ngậm ngùi.
Nhắc đến đồng đội, ông Lừng lại nhớ lần gặp thương binh Phạm Văn Đắc, người bạn chiến đấu bị bom napan thiêu cháy một mảng lưng. Câu chuyện của ông Đắc, đến giờ, nghe lại vẫn khiến người ta gai sống lưng. Khi bị lính Mỹ phát hiện trong bụi cỏ voi và lôi ra để đưa lên trực thăng, ở đúng ranh giới sống – chết, người chiến sĩ ấy đã rút chốt quả lựu đạn và ném thẳng vào khoang trực thăng, rồi tự lăn xuống đất. Chiếc trực thăng bốc lửa. “Nếu ai hỏi lòng quả cảm là gì…”, ông Lừng khẽ nói, “thì câu chuyện của Đắc… đủ để trả lời rồi”.
Không chỉ có người lính, Plei Me còn là nơi kết tinh tình người của bao dân làng Tây Nguyên. Ông Siu Long, người con của làng Goòng, xã Ia Púch, từng trực tiếp tham chiến trong chiến dịch Plei Me, xúc động kể lại: “Chúng tôi không thể quên những đêm hành quân xuyên rừng, những bữa cơm vội giữa làn đạn. Không thể quên những đồng đội ngã xuống chưa kịp gọi tên nhau. Dù đói rét, bệnh tật, dù địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng tôi vẫn một lòng tin vào Đảng, vào thắng lợi cuối cùng. Và không thể quên công lao những người mẹ, người chị, người em Tây Nguyên đã chở che, chia từng bát cơm, nắm muối, tấm áo…”. Trong chiến tranh, có những chiến công được ghi vào sách. Nhưng cũng có những hy sinh bình dị như ánh đèn dầu cuối bản làng, khi người phụ nữ giã gạo nửa đêm cho bộ đội, người già gùi lá rừng cầm máu thương binh, đứa trẻ dẫn đường qua đèo suối… Tất cả lặng thầm làm nên sức mạnh của một chiến dịch.
Plei Me giờ đã khác xưa rất nhiều. Những hố bom đã thành ruộng xanh, nơi rừng già từng vang tiếng trực thăng Mỹ giờ ríu rít tiếng chim. Con đường vào Ia Đrăng cũng đã trải nhựa phẳng phiu. Những thanh niên Tây Nguyên, con cháu của những người từng che giấu bộ đội, giờ đã thành công nhân, giáo viên, bộ đội biên phòng… Nhưng vào mỗi dịp 19.11, nghĩa trang Chư Prông lại đông lên. Những mái đầu bạc ngồi lặng bên bia mộ đồng đội. Những đôi mắt từng nhìn thẳng vào làn đạn năm nào, giờ rưng rưng trước vệt rêu xanh phủ trên bia đá.
Sáu mươi năm đã trôi qua, đất nước bước vào thời hòa bình và phát triển. Nhưng câu chuyện Plei Me vẫn được kể lại, tôi hiểu rằng sự gợi nhắc ấy không phải để khơi gợi đau thương, mà để nhắc nhớ về giá trị của hòa bình, của tự do, những giá trị đã được đánh đổi bằng máu và tuổi xuân của bao con người.
GIA BÌNH



