(VNGL- Truyện ngắn).
1.
Bùi Cự phú giàu có nhất vùng Phú Phong nhờ buôn lụa tơ tằm. Nhưng họ Bùi mấy đời thiếu chữ lận lưng nên lần nào làng cúng Thanh Minh, Bùi Cự phú cũng ngậm bồ hòn ngồi chiếu dưới. Bùi Cự phú lấy làm tủi nhục lắm bèn cho mời thầy đồ giỏi về dạy cho hai con trai, đứa lớn mười ba tuổi tên Tuyên, đứa nhỏ tám tuổi tên Nhật, tốn kém mấy cũng không tiếc. Nhưng anh em Tuyên vốn ham chơi từ nhỏ, lòng không mấy mặn mà con chữ. Mỗi lần thầy hỏi bài, anh em Tuyên thường lấy cớ đau đầu, khó ở để thoái thác. Dạy đâu chừng mấy tháng thì thầy đồ xin về quê làm giỗ mẹ rồi không đến nữa. Bùi Cự phú không nản, cho người đi khắp nơi tìm thầy đồ khác.
Một ngày nọ, Bùi Cự phú cho gia nhân đào ao thả cá, dưới đáy ao tình cờ tìm thấy một cái tráp cổ bằng gỗ quý. Mở tráp thấy một sấp lụa còn đỏ như son. Bên trong lớp lụa điều là một cái quản bút đã gãy mất một phần cán. Thân bút bằng tre ngà, chạm hình một con chim phượng đang bay. Đầu cán bút khắc lờ mờ một chữ Nho. Ngâm bút vào nước giếng trong thấy bọt bèo nổi lều bều. Đem nước ấy đổ ra góc vườn thì thấy cỏ dại đang xanh um bỗng úa vàng. Bùi Cự phú lấy làm kinh sợ. Hôm sau, có vị khách quý ghé thăm nhà, Bùi Cự phú bèn đem quản bút ra khoe. Khách người Quảng Đông, rành thuật phong thủy, thường hay ghé Bùi gia mua lụa. Khách lật qua lật lại một đỗi, xong trỏ chữ Nho, giọng phấn khích :
– Dưới mái nhà có một quý bà, đây là chữ An. Nét chữ sắc sảo, thân bút khắc chim phượng, hẳn nó là vật dùng của một đại quan. Quý lắm, quý lắm.
Bùi Cự phú nghe vậy mặt mày hớn hở bèn dẫn khách ra góc vườn, trỏ vạt cỏ kể lại chuyện lạ. Khách cười bảo :
– Cỏ kia héo là bởi sát khí của quản bút quá vượng, có gì lạ đâu. Đất nhà ông thế Tam Ban, nay được quản bút thì công danh phú quý không biết nhiêu mà kể. Nếu gặp vận Văn Khúc thì con cháu giỏi văn chương, thi phú. Được thời còn phát cả công hầu. Đại hỷ, đại hỷ. Mừng cho Bùi gia.
Bùi Cự phú nghe vậy tuy mặt mừng rỡ nhưng lòng không vui. Khách đi rồi còn ngồi bần thần hồi lâu. Hôm sau, Bùi Cự phú khăn áo chỉnh tề dắt con trai đầu là Đắc Tuyên xuống An Thái xin vào học giáo Hiến.
Giáo Hiến thông kinh bác sử, nghe đâu từng làm môn khách cho một vị quan lớn ở Phú Xuân, nhưng vì thời thế phải lánh vào quê vợ ở Quy Nhơn mở trường dạy học. Thầy rất nghiêm khắc với học trò. Đứa nào lười biếng trễ nãi liền bị thầy bắt quỳ xơ mít và cho ăn roi mây. Sợ cha ngầy, thầy phạt, Tuyên ngày đêm chuyên cần, học hành có phần tiến bộ. Nhưng chữ vào đầu rồi chữ ra, Tuyên nhớ nhớ quên quên, tối ngủ thường gặp mộng mị. Một đêm nằm mơ thấy một hình nhân kỳ dị, hai chân dài lêu nghêu, đầu đội mũ cánh chuồn, mặt đầy chữ, cái lưỡi dài đỏ hỏn. Con ma đuổi bắt Tuyên, Tuyên chạy đi đâu cũng không thoát được nó. Giật mình thức dậy thì xuất hạn đầm đìa, người hồi hộp bất an. Mấy ngày liền cứ gặp mộng như thế. Tuyên lo, bèn hỏi thầy. Con muốn sai khiến chữ nhưng không cần học, có được không. Thầy trừng mắt, đáp. Được, nhưng phải là kẻ gian hùng. Đáp xong, mắng thêm một trận. Hôm sau, Tuyên bỏ học về nhà. Nhưng con ma chữ và cái roi mây của thầy cứ ám ảnh mãi khiến Tuyên mất ăn mất ngủ. Bùi Cự phú sợ con hóa rồ vội mời sư thầy về cúng giải.
Sư thầy thiết trai đàn cúng ba ngày ba đêm. Xong, sư ngồi kể chuyện đời mình. Thì ra sư thầy vốn là một ông đồ có tiếng ở Quảng Nam, nhưng vào thời mạt chữ, đói không có cái ăn mới khăn gói vào Quy Nhơn tìm học trò. Đến chợ Gò Chàm gặp một đám quan lại chức sắc giở trò càn rỡ với con gái nhà lành, ông đồ bèn đem lời khuyên bảo liền bị bọn vô lại đánh cho thừa sống thiếu chết. Sau lần ấy, ông đồ xuống tóc vào chùa đi tu. Bùi Cự phú nghe kể chỉ biết ngồi thở dài. Sau lần cúng ấy, Tuyên không còn bị con ma chữ ám nữa nhưng khao khát được ngồi chiếu trên, bên mâm cao cỗ đầy làm Bùi Cự phú cứ buồn bực khó ở.
Ngày giỗ cha năm đó, Bùi Cự phú làm cỗ rất to, mời cả làng. Trong lúc rượu vào lời ra, có kẻ xỏ xiên khi dễ làm Bùi Cự phú ức quá thổ ra huyết, hôm sau nằm liệt giường. Thầy thuốc giỏi đến chẩn mạch bốc thuốc mãi mà bệnh ngày càng nặng. Không lâu thì mất. Trước khi mất thều thào trối rằng, con cháu đứa nào nhờ cái chữ mà lập danh thì cho ăn thừa tự nửa gia sản họ Bùi. Trối xong thì đi nhưng mắt không chịu nhắm. Cha mất, Đắc Tuyên làm đám ma rất hậu. Lúc liệm, thấy cái quản bút cũ kỹ nếu để lại thì sinh lo buồn, còn vứt đi lại sợ mang tội nên Tuyên cho chôn cùng cha.
Mấy năm sau, Tây Sơn khởi nghĩa, con cháu họ Bùi náo nức tham gia. Nổi tiếng nhất có cô cháu gái tên gọi Bùi Thị Xuân rất giỏi quyền kiếm, được anh em Nguyễn Nhạc xem như cật ruột. Các anh em Tuyên võ nghệ kém nhưng có chút chữ nghĩa nên được xung vào đội coi quân lương của nghĩa quân. Riêng cô em gái út Bùi Thị Nhạn nhờ biết kiếm cung nên ở dưới trướng của Bùi Thị Xuân, sau kết nghĩa vợ chồng với Nguyễn Huệ. Cuối năm Thân, trước khi đem quân ra Bắc đánh giặc Thanh, Nguyễn Huệ làm lễ tế trời đất ở núi Bân lên ngôi thiên tử. Bùi Thị Nhạn được phong làm Chánh cung Hoàng hậu. Bùi Đắc Tuyên nhờ vậy được lãnh chức Tả Thị Lang bộ Lễ.
Những ngày đầu xênh xang áo lụa the, mũ cánh chuồn, Tuyên thích lắm, nói cười không dứt. Một lần, vui quá lỡ lời, Tuyên bị vua nhắc khéo trước triều, tuy không quở phạt gì, nhưng bọn đồng liêu được một trận cười vỡ bụng. Tuyên giận lắm. Mấy đêm liền trằn trọc không ngủ, con ma chữ lại hiện về khiến Tuyên vô cùng khổ sở. Tuyên vò đầu bứt tóc chẳng biết làm sao. Tuyên dẫu là anh vợ vua nhưng thấy mình thân cô thế yếu, buồn phiền mãi không dứt liền cho thuộc hạ về Quy Nhơn đưa đứa em nuôi thân thiết là Bùi Hả ra kinh thành cho có bầu bạn.
Nhà Hả vốn không có họ, đã mấy đời làm tôi tớ cho họ Bùi. Đến đời cha Hả, nhờ chăm chỉ tháo vát nên Bùi Cự phú yêu thương như con. Năm đó, nhân chuyến hàng lụa Phú Phong vừa giao xong được lời to, Bùi Cự phú liền cho mang họ Bùi, đặt tên là Hỉ. Bùi Hả sinh ra người lùn nhỏ, mặt hơi đần, cổ ngắn, tay chân ngắn. Bùi Cự phú lấy làm dị thường liền cho mời thầy về coi tướng. Nghe thầy phán, tướng Hả ngũ đoản mơi mốt không khanh tướng cũng công hầu. Bùi Cự phú mừng lắm cho ăn ở học hành như các con trong nhà. Từ ngày có Hả, nhà họ Bùi làm ăn ngày càng khấm khá khiến Bùi Cự phú cưng quý vô cùng.
Khi Bùi Đắc Tuyên theo Long Nhương Tướng quân đánh Phú Xuân thì gửi gắm Bùi Hả cho Thái tử Nguyễn Bảo. Bảo thấy tướng Hả hèn nên chỉ dùng làm người coi ngựa. Hả buồn lắm nhưng cắn răng đợi thời.
Bùi Hả nghe Tuyên cho gọi liền lén trốn khỏi phủ Thái tử chọn đường vắng, đêm đi ngày nghỉ rất cẩn trọng. Đến Phú Xuân chưa kịp tắm rửa gì Bùi Hả vội vàng vào gặp Tuyên ngay. Nghe anh nuôi bực dọc kể một thôi một hồi về con ma chữ, Hả cười ré lên:
– Bọn có chữ cái miệng đứa nào cũng to nhưng lá gan thì bé tí. Huynh trưởng thử dằn mặt một đứa thì bọn còn lại phải co vòi.
Tuyên nhăn mặt :
– Tao võ nghệ không có, chữ nghĩa chẳng đủ nêm một bát nước xáo, đánh bọn có chữ kia khác nào bẻ cành lau mà quét gió Bấc. Hoàng thượng rất nghiêm khắc đấy, mày chớ có đùa.
Bùi Hả trầm ngâm:
– Đệ có quen một sư phụ, tuy trẻ tuổi nhưng biết nhiều thuật lạ, có thể làm phép hoán duyên cải hạn. Nhưng sư này tính quái dị, phải chùa to lễ trọng thì mới chịu hạ sơn.
Tuyên cười to:
– Việc đó khó chi. Mày vào tắm rửa, ăn uống rồi đi ngay cho tao.
2.
Nghe lời Hả, Tuyên cho xây chùa Thiên Háo nằm trên một gò đất cao ráo ở bờ Nam sông Hương. Chùa xây kiểu cổ, ba tháng thì xong. Sư Đồng Đức đến nhận chùa mừng ra mặt. Tuyên đến hỏi chuyện thấy vị sư trẻ mặc hoa da phấn, cử chỉ đĩnh đạc, lại thuyết giảng kinh Phật giản dị mà rõ ràng mạch lạc lấy làm ưa thích lắm liền kể rõ ngọn ngành lai lịch con ma chữ. Sư nghe xong trầm ngâm một đỗi rồi bảo:
– Tróc nã con ma chữ không khó. Chỉ e phước đức con cháu của đại nhân ít nhiều bị tổn hại.
Tuyên cười khẩy:
– Quyền đã to, phước đức hẳn cao. Được núi cả, mất chút xíu đất ở móng tay thì có hề chi.
Sư nghe vậy liền cho lập đàn giải hạn. Sư cho làm một hình nộm bằng rơm to như người thật, quanh thân giắt đầy chữ. Sư đọc kinh gõ mõ một hồi thì bảo Tuyên dùng roi mây đánh vào hình nộm. Tuyên vừa sỉ vả mắng nhiếc vừa vụt roi vun vút vào con ma chữ rất là khoái trá. Tuyên đánh đến khi hình nộm tơi tả thì sai Bùi Hả đem ra sau chùa đốt lấy tro ném xuống sông Hương.
Sau lần đánh chữ giải hạn, Tuyên tự tin hẳn. Nhiều lần nhìn bọn đồng liêu khua môi múa mép trước vua, Tuyên thấy chân tay ngứa ngáy rất khó chịu, nhưng miệng lưỡi vẫn còn cứng đơ. Sư Đồng Đức nghe Tuyên than ngắn thở dài liền ghé miệng vào tai Tuyên nhỏ to bày kế. Tuyên vừa nghe vừa nhịp nhịp đùi, mắt sáng long lanh như mẻ đèn đêm hát Tuồng.
Người được chọn để thi hành diệu kế là Đại Tư mã Ngô Văn Sở. Sở văn võ song toàn được vua rất tin cậy giao nhiều việc lớn. Sau lần đi sứ nhà Thanh thành công rực rỡ, Sở được vua ban thưởng rất hậu, uy thế rất cao trong triều. Một lần nọ, Sở thấy buồn bực khó chịu không biết vì sao liền nghe lời Tuyên đến chùa Thiên Háo lễ Phật nghe kinh. Lễ rồi thơ thẩn vãn cảnh chùa thì tình cờ gặp được mỹ nhân. Mỹ nhân ăn nói thanh tao, lại biết xướng họa thi phú khiến Sở mê như điếu đổ. Nửa đời chinh Nam phạt Bắc đứng trước hòn tên mũi đạn Sở chưa hề run sợ, vậy mà tay chân cứ lóng nga lóng ngóng bên người đẹp. Người đẹp mắt lúng liếng lửa tình, lời qua lời lại đẩy đưa, như thể tri âm chờ đợi đã lâu ngày khiến Sở mụ cả người không còn nhớ gì đến xung quanh nữa. Rồi dằn lòng không được hai người mới bày chuyện mây mưa sau chùa. Sư thầy Đồng Đức và Tuyên bắt gặp tại trận khiến đôi gian phu dâm phụ đứng thẹn như trời trồng. Thì ra mỹ nhân vốn là một kỹ nữ lầu xanh được Tuyên chuộc về hầu hạ trong nhà cưng yêu như thiếp. Sở sợ vỡ chuyện mất hết thanh danh mới nài nỉ xin Tuyên giữ kín. Tuyên hứa. Còn gả mỹ nhân cho. Từ đó Tuyên bảo gì Sở cũng nghe theo.
Có được Sở rồi, Tuyên liền bày tiệc vui mời các quan đến dự. Thái tử Quang Toản còn nhỏ xíu nhưng cũng đến mừng tiệc tại nhà cậu ruột. Tuyên theo lời Đồng Đức thi hành kế “Chỉ tang mạ hòe”, mượn oai hùm của Thái tử và Đại Tư mã để sai khiến các võ quan nhằm mắng xéo bọn có chữ để gây thanh thế. Biết Toản mê đá gà, Tuyên bèn sai bày cuộc chọi gà vừa ăn uống vừa xem. Toản thích lắm vỗ tay liên hồi. Sau trận gà, Tuyên lại bảo Võ Đình Tú và Đặng Xuân Phong đấu côn đao cho mọi người thưởng lãm. Toản và Sở vỗ tay hưởng ứng liền. Cực chẳng đã hai võ tướng phải xắn tay áo ra sân. Tú là một tướng tài trong Tây Sơn Thất Hổ tướng nổi danh về cây thiết côn. Phong là một mãnh tướng, rất giỏi về đại đao. Hai tướng côn qua đao lại dư trăm hiệp không phân thắng thua khiến mọi người ai cũng trầm trồ thán phục. Gần tàn tiệc, lúc rượu đã ngà ngà say, quan Thị Lang bộ Lễ là Trương Long Tu cậy là đồng liêu, lại cùng quê tình thực khuyên Tuyên bớt bày những trò mọn kẻo Thái tử ham chơi quên học chữ thánh hiền, nguy hại về sau. Tuyên nghe khuyên vậy giận cành hông muốn ra oai nhưng có một nỗi sợ vô hình cứ làm tay Tuyên run bắn. Con ma chữ lại hiện về khiến Tuyên líu lưỡi không nói được tiếng nào. Bùi Hả thấy vậy bước ra chỉ mặt Long Tu nạt lớn:
– Mày chưa đủ tuổi để nói lễ nghĩa với huynh trưởng tao.
Nói xong sấn tới làm mấy tát tai. Long Tu máu me mũi dãi lòng thòng đứng khóc hu hu. Các quan ai thấy cũng trái khoáy nhưng ai cũng giả bộ làm ngơ khiến Tuyên vô cùng hỉ hả.
Sau lần ấy bọn có chữ gặp Tuyên đều im thin thít. Vua Quang Trung nghe chuyện đá gà, sai tướng làm trò vui liền kêu Tuyên đến la ngầy, bắt Tuyên hứa dạy chữ rèn đức cho Thái tử để mai sau nối nghiệp lớn. Tuyên dạ dạ lui ra, hứa không tái phạm nữa nhưng khi có dịp lại bày trò vui chơi cùng Toản.
3.
Tháng Bảy năm Nhâm Tý, vua Quang Trung mất. Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Bùi Đắc Tuyên được phong chức Thái sư, buông rèm nhiếp chính. Sau một trăm ngày mất của Tiên đế, Thái sư theo lời Đồng Đức thi hành kế “Bách hoa đồng khai”. Thái sư cho lập đàn cúng tế để cầu quốc thái dân an tại chùa Thiên Háo. Cúng xong, Thái sư sụt sùi đứng trước bá quan xin mọi người hãy vì cơ nghiệp của Tiên đế hết lòng phò tá cho nhà vua còn trẻ người non dạ, xin các quan chỉ ra chỗ hay điều dở của vua và Thái sư để vua và Thái sư răn mình khi trị quốc. Các quan nghe xong ai cũng xúc động liền hồ hởi góp ý. Thái sư thành tâm cảm ơn các quan trước triều và còn thưởng lớn cho ai có lời nói thẳng, can gián hay nhưng tình thực đang để bụng những kẻ nhiều chuyện.
Mùa hạ năm sau, Nguyễn Ánh đem quân ra vây thành Quy Nhơn rất ngặt khiến vua Thái Đức Nguyễn Nhạc phải cho người chạy ra Phú Xuân cầu cứu. Thái sư nghe tin muốn nhân sự tùng sự cướp lấy Quy Nhơn bèn sai bọn Phạm Văn Hưng, Ngô Văn Sở đem hai mươi vạn quân thủy bộ vào cứu giá. Bọn Hưng nhập thành cướp ấn ngọc, binh phù của Thái Đức khiến vua uất hận chết trên ngai vàng. Còn Thái tử Nguyễn Bảo thì bị phế làm Hiếu công cho ăn lộc một ấp Phù Ly.
Từ ngày Quy Nhơn lệ thuộc vào Phú Xuân, Bùi Đắc Tuyên thâu tóm vào tay mọi quyền hành, uy lấn át cả vua, mọi việc lớn nhỏ trong triều ngoài biên đều do Thái sư sắp đặt giải quyết cả. Những kẻ nhiều chuyện trước kia đều bị Thái sư cho về vườn hoặc đày ra biên ải.
Cuối thu năm đó, Thái sư bỗng dưng ốm nặng, bọn thái y bốc thuốc hoài không bớt. Sư Đồng Đức tới thăm vừa thấy mặt Thái sư vội vàng phán rằng:
– Mộ tổ bị gai đâm vào mắt, phải cứu gấp mới kịp
Thái sư nghe phán kinh sợ vội cho người về quê Phú Phong hỏi thử thì quả nhiên trên đầu mộ Bùi Cự phú bỗng mọc lên một cây lạ, gai tua tủa. Thái sư vội cho nhổ đi và sửa sang lại mộ. Mấy hôm sau uống thuốc tể, tắm lá xông thì người khỏe lại. Đồng Đức lại bảo Thái sư lập đàn giải hạn, xây tháp báo ân. Thái sư nghe theo cho xây Cửu liên đài rất đẹp trong chùa Thiên Háo. Xây xong, lập đàn làm lễ cúng, rồi bảo Thái y bốc thuốc theo lời sư dạy. Thái sư uống thuốc ba ngày thì hết bệnh. Thái sư mừng lắm thưởng cho Đồng Đức rất hậu, lại muốn phong làm Quốc sư. Nhưng Đồng Đức thoái thác, cứ luôn khiêm tốn xưng mình là học trò, chỉ muốn được Thái sư chở che dạy bảo để ngày ngày đem phước báu của Phật cúng dường đại chúng. Thái sư nghe vậy lòng nể trọng lắm.
Chừng nửa tháng sau có quan Tri huyện Tuy Viễn khăn gói ra Phú Xuân tìm gặp Hả cậy nhờ sư Đồng Đức giải hạn. Tri huyện đang bị dân kiện tội tham tang và cướp đất của dân. Sư Đồng Đức liền cúng kinh ba ngày. Cúng xong không thấy dân kiện tụng nữa. Danh tiếng của sư Đồng Đức từ đó nổi như phao. Quan nào gặp nạn đều lén lút đến thăm sư tại chùa. Ai cầu tự, cầu duyên, cầu mua may bán đắt hay cầu quan lộ hanh thông đều đến nhờ sư Đồng Đức cả.
4.
Từ ngày ngồi ngôi cao, con ma chữ không làm Thái sư mất ngủ nữa. Xung quanh Thái sư không lúc nào thiếu bọn ngáo chữ, luôn vun bút tung hê Thái sư đến mây xanh. Bùi Thái sư mặt tươi như hoa trước ngồn ngộn chữ nghĩa nhưng miệng lúc nào cũng hạ mình khiến con chữ đã cao sang lại càng thêm rổn rảng. Biết chúng giả dối nhưng không hiểu sao ngày nào Thái sư cũng khiêm tốn đòi nghe. Nghe riết thành nghiện.
Thái sư bắt đầu có những giấc mơ kỳ quặc, giấc mơ nào cũng thấp thoáng bóng rồng. Thức dậy, mồ hôi ướt đẫm lưng, ban đầu kinh sợ đến nỗi hốt hoảng suốt mấy ngày, sau quen chỉ thấy chút lo lắng mơ hồ. Có hôm Thái sư mơ thấy mình ngồi trên ngai vàng uống rượu, xung quanh điện rồng bọn ma chữ mặc áo the, đầu đội mũ cánh chuồn đứng hầu, đứa đọc thơ, kẻ ngâm phú rất là rôm rả. Thái sư rung đùi cười hỉ hả. Ôi, thời thịnh trị chưa bao giờ như hôm nay! Tỉnh giấc, bàng hoàng trong sung sướng tái tê, Thái sư lại thấy lòng chơi vơi hẫng hụt. Không ngờ càng lên ngôi cao Thái sư càng thấy mình lẻ loi cô độc. Thái sư ứa nước mắt nhớ lại thuở hoa niên khờ dại mà chắt lưỡi than hoài.
Những lần như vậy Bùi Thái sư lại lên chùa Thiên Háo lễ Phật nghe Đồng Đức giảng kinh. Rồi Đồng Đức bày Thái sư luyện thở tập thiền. Thiền ban đầu hơi khó, dần thì quen và thấy người khỏe khoắn, điềm tĩnh hẳn ra. Vậy nên có khi Thái sư ở lại chùa mươi ngày nửa tháng mới về. Rồi để tiện việc hành thiền Thái sư cho dời phủ ra chùa, giải quyết việc triều chính ngay giữa câu kinh lời kệ. Việc nào khó xử thì hỏi luôn kế ở sư Đồng Đức. Các quan có việc cần đều phải đến chùa nộp bản tấu trước cho Bùi Hả. Hả vui vẻ nhận thì mới chuyển vào cho Thái sư giải quyết. Vì vậy các quan ai đến chùa cũng đều quà cáp hay vàng bạc đút lót cho Hả để việc mình hanh thông. Những kẻ mua chức chạy quyền đến nhỏ to với Hả đều được tất. Bọn quan tham gặp nạn thì đến chùa năn nỉ sư Đồng Đức giải hạn nhưng tình thực muốn qua sư để chạy tội cũng phải cậy nhờ Hả. Hả nhận vàng thoi bạc nén nhiều vô kể nhưng đâu có ăn một mình. Một nửa Hả cho vào kho lẫm của Thái sư, một ít cất vào rương làm của riêng, lúc rỗi rãi mở ra sờ mó, ngắm nghía, hít hà sảng khoái trong ánh nến nhảy múa chập chờn. Phần còn lại thì làm phước cho chùa. Chẳng mấy chốc chùa Thiên Háo đã như một cung điện tráng lệ nguy nga, suốt ngày nhộn nhịp người ra kẻ vào, nườm nượp quan to quan nhỏ.
Nhưng không phải ai đến chùa cũng có của đút. Quốc Tử Giám trực giảng là Vũ Ngọc Cảo đến dâng sớ xin tiền tu bổ trường dạy chữ cho các con quan nhưng đi tay không nên Hả không thèm tiếp. Cảo đợi cả ngày trời không thấy ai đoái hoài tới tên giận quá chửi mắng ầm ĩ liền bị Hả phang gậy gãy mất ba xương sườn, lại còn dọa đuổi về quê chăn bò. Cảo vốn tính cương trực bị tiểu nhân làm nhục cả thẹn liền từ quan về nhà cày ruộng. Cảo làm nhiều bài thơ hài tội kẻ gian thần, có ý ám chỉ Thái sư khiến Thái sư xem xong giận lắm cho người vào bắt trị tội. Nhưng khi chúng đến nơi thì Cảo đã chết. Bùi Thái sư không tin bảo là giả chết để tránh tội bèn sai phá quan tài ra xem. Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng và Trần Văn Kỷ phải nói mãi Thái sư mới thôi.
5.
Từ ngày hành thiền đều đặn Thái sư làm việc tất bật cả ngày nhưng không biết mệt, đã vậy tinh lực thêm dồi dào, thấy gái lại thích. Một hôm vui miệng Thái sư đòi tìm thuốc cải lão hoàn đồng. Sư Đồng Đức liền bày Thái sư luyện thiền kiểu mới. Bắt con gái mới lớn xinh đẹp còn trinh đem về phủ. Vừa hành lạc vừa tập thiền. Công lực Thái sư nhờ đó tăng vùn vụt. Da dẻ hồng hào trẻ trung. Tóc bạc chuyển thành xanh. Con ma chữ đêm đêm lại hiện về đọc phú ngâm thơ ngợi ca tài đức Thái sư khiến Thái sư bồng bềnh như đang ở cõi tiên, mấy hôm liền cứ mộng thấy rắn hóa rồng, thấy hươu thành ngựa. Thái sư lấy làm lạ bèn hỏi sư Đồng Đức. Sư lật sách tìm kiếm, nhẩm tính một hồi rồi phán rằng Thái sư có chân mạng đế vương nhưng chỉ khi nào bọn có chữ bảo hươu là ngựa thì may ra mới lên ngôi thiên tử. Thái sư nghe phán lòng buồn bực phẩy tay vào giường nằm, mấy ngày liền không thiết ăn uống gì. Sư Đồng Đức thấy Thái sư không vui bèn bày đúc tượng của Thái sư bằng vàng đặt dưới tòa sen, đêm đêm gõ mõ tụng niệm tỏ lòng thành với Phật để sớm thành đại nghiệp. Thái sư bùi tai liền nghe theo.
Bấy giờ có Võ Văn Dũng cậy mình công to thường hay lắm lời khiến Thái sư khó chịu lắm. Vả chăng nếu còn Dũng ở Phú Xuân e việc lớn khó thành nên nhân có bọn con cháu vua Lê chúa Trịnh nổi lên làm loạn, Thái sư liền sai Dũng ra trấn nhậm Thăng Long.
Mùa gió Nam năm ấy quân Gia Định lại ra quấy nhiễu, Thái sư liền sai Trần Quang Diệu cầm quân vào Quy Nhơn. Lại sai Bùi Thị Xuân vào trấn nhậm Quảng Nam để hỗ trợ cho chồng. Vậy là bọn quan võ trong triều đều ở phe Thái sư cả. Đại sự nếu tiến hành thì dễ như trở bàn tay. Nhưng Thái sư còn e dè bọn có chữ, nhất là Trung thư Trần Văn Kỷ, người luôn xem Tiên đế như tri âm nên Thái sư cứ trùng trình chờ dịp.
Dịp may đến khi Trần Quang Diệu cho Lê Tuấn, một tướng trẻ về kinh đô báo tin thắng trận. Tuấn vừa kết duyên một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp ở Phú Yên chờ ngày hợp hôn nên được Diệu đặc ân cho đem vợ sắp cưới về ra mắt gia đình ở Phú Xuân. Tuấn đến yết kiến Thái sư gặp Hả, thấy tướng Hả hèn không thèm chào, Tuấn lại không có chi đút lót nên chờ mãi mà không đến lượt mình cứ giậm cẳng kêu trời, lại mắng Hả xối xả. Hả giận lắm sai quân bắt trói giam vào ngục, rồi cho người đến bắt vợ Tuấn mang về dâng lên Thái sư. Thái sư hỉ hả nhận quà, cho hành lạc luyện thiền ngay. Chừng biết chuyện thì mọi việc đã vỡ lỡ chưa biết tính sao chợt giật mình ngộ ra giấc mơ rắn hóa rồng, hươu hóa ngựa. Tích ấy giáo Hiến có lần đã kể. Vào thời Tần Nhị Thế, Thừa tướng Triệu Cao chuyên quyền. Một hôm, Cao muốn thử lòng các quan bèn đem vào dâng vua một con hươu nhưng cứ khăng khăng bảo đó là ngựa. Bọn quan lại hèn nhát sợ Cao trả thù nên đều hùa theo là ngựa khiến vua xây xẩm mặt mày cứ tưởng đang bệnh nhìn gà hóa cuốc. Từ đó Cao uy quyền tột đỉnh muốn gì được nấy. Thái sư gật gù lẩm bẩm, Lê Tuấn là hươu chăng?

Hôm sau Thái sư thiết triều kết tội Lê Tuấn chưa có lệnh triệu về đã cố ý hồi kinh, có ý làm phản, tội đáng chém đầu. Bọn Sở, Hưng đều hùa theo. Trung thư Trần Văn Kỷ biết Lê Tuấn bị hàm oan liền bước ra can ngăn rất quyết liệt. Thái sư tím mặt nhớ lại lúc được phong làm Tả Thị Lang bộ Lễ và được giao dạy Thái tử, chính Kỷ là kẻ đã ngăn Tiên đế không cho Tuyên làm thầy vì sợ làm hỏng Thái tử. Tuy Tiên đế không theo lời tâu của Kỷ nhưng sau lần đó Thái sư cứ thấy bẽ bàng xấu hổ mỗi khi ai nhắc đến. Giờ Kỷ là chướng ngại cuối cùng lớn nhất mà Thái sư phải vượt qua bằng mọi giá nếu muốn hoàn thành nghiệp lớn. Thái sư liền đùng đùng nổi giận khép Kỷ tội tòng mưu dự phản cho lột sạch áo mão, cách hết chức tước đày ra làm lính ở trạm Hoàng Giang. Còn Lê Tuấn thì cho chém bêu đầu thị chúng. Vua Cảnh Thịnh ngồi mân mê chơi một mình với chiếc diều tre trên ngai rồng không để ý gì tới xung quanh. Còn bọn có chữ lấm lét nhìn nhau không dám hó hé gì. Hôm sau, Thái sư giả chiếu chỉ sai Sở ra Thăng Long thay Dũng, triệu Dũng về trị tội để khỏi vạ về sau.
6.
Cả kinh thành Phú Xuân rúng động khi nghe tin Bùi Thái sư cùng bè đảng âm mưu cướp ngôi. Cáo thị viết rõ rằng bọn phản loạn sẽ bị dìm chết ở sông Hương vào đúng giờ Ngọ.
Từ sáng sớm, năm tử tù bị nhốt vào cũi tre, chằng xích bốn bên. Mỗi chiếc cũi do một xe ngựa kéo đi, chậm rãi lê một vòng quanh kinh thành thị chúng trước khi bị hành quyết.
Trời trở gió.
Những đám mây đen hình chim quạ ùn lên thành bầy chao chát một góc trời Nam.
Hai chiếc cũi tre của cha con Tuyên đi đầu. Giữa là Sở. Sau nữa là Hả và Đồng Đức. Tuyên nhìn sang Đắc Trụ. Mắt cay xè. Lòng quặn thắt. Tóc Trụ dài rũ rượi, gò má nổi cao, hố mắt sâu hoắm. Trụ có tội lỗi gì đâu mà phải cùng cha chung số phận đắng cay này. Ôi, tội nghiệp con. Trụ ơi, xin con vạn lần hãy tha thứ cho cha. Tuyên ngậm ngùi quay lại nhìn Sở. Mặt Sở nhợt nhạt thất thần, mắt mở to như người mất hồn. Sở đang nghĩ gì, đang thèm tiếc dĩ vãng hay đang mộng về mỹ nhân? Ôi, Sở thật đáng thương. Một đời Sở dọc ngang uy danh lừng lẫy chỉ một phút yếu lòng trước mỹ nhân mà đành đoạn sống thừa sống thẹo với trò chơi quyền lực của Tuyên. Còn kia trong cũi tre, mặt Hả trông buồn xực như chó đói. Hả cả một đời cúc cung tận tụy với chủ, luôn tìm cách bòn rút bớt xén bạc vàng, không biết lúc hồn lìa khỏi xác có còn bịn rịn tiếc rẻ khóc than bên đống của chìm của nổi không? Và kia nữa, sư Đồng Đức mặt trắng bệt, mắt nhắm hờ, miệng mấp máy như đang tụng kinh. Sư đang nghĩ tới Niết bàn chăng hay sư đang niệm niệm để ngộ ra điều không thể luận bàn để giải tội cho sư trước khi lìa xa cõi sắc dục ô trọc nhớp nhơ này?
Cũi tre lắc lư gập ghềnh trên đường sỏi. Cũi tre liêu xiêu ngả nghiêng dọc bờ sông lầy lội. Tuyên nuốt nước bọt. Miệng khô ran. Đắng ngắt. Đường đến sông Hương lần đầu tiên Tuyên đi sao xa quá. Và lần đầu tiên Tuyên bỗng ngỡ ngàng nhận ra Phú Xuân diễm lệ mà bao lâu nay Tuyên gìn giữ ước vọng sao hoang tàn rệu rã và xác xơ đến thế. Những đền đài phế tích rêu phong. Những túp lều tranh xiêu vẹo mục nát. Những con dân gầy nhom đứng hai bên đường chỉ trỏ giễu nhại. Tuyên bất giác nhếch mép cười khẩy. Cả đời Tuyên hóa ra chỉ là một cơn mơ, một cơn mơ trần tục đã ám ảnh con cháu họ Bùi tự bao đời. Mâm lớn và cỗ đầy. Chiếu trên và ngôi cao. Ôi, quyền uy và danh lợi đã đưa Tuyên đi từ mê lộ này đến mê cung khác, từ đôi chiếu hoa sặc sỡ ở đình làng đến chiếc ngai vàng rực rỡ của thiên tử. Tất cả đều mê hoặc ma mị trong lòng Tuyên. Cho đến khi Võ Văn Dũng cùng Trần Văn Kỷ dẫn quân ào vào phủ Thái sư đè nghiến Tuyên xuống sập rồng, trói giật khủy tay dẫn đi thì Tuyên mới bàng hoàng tỉnh mộng. Hóa ra con chữ bén hơn vạn lần kiếm báu. Tuyên đã đánh giá quá thấp về những kẻ võ biền khôn lỏi như Dũng. Tuyên cũng quá coi thường con chữ ở một lão già ốm yếu như Kỷ trong thân phận một tên lính quèn ở trạm Hoàng Giang. Chính Kỷ, không ai khác, đã chận đường hồi kinh của Dũng, múa chữ bằng đầu lưỡi làm lung lạc Dũng, xúi giục Dũng phá hủy cơ mưu của Tuyên. Và bọn võ biền Hưng, Huấn kia nữa. Phải là kẻ bụng đầy kinh luân, giảo ngôn như Kỷ mới khiến bọn Hưng, Huấn vốn là bè đảng lâu nay với Tuyên chịu quay cờ trở giáo. Con ma chữ, chao ôi! Sao nó mãi một đời cứ ám vào Tuyên. Tuyên đã từng sợ hãi, từng đau đớn chạy trốn nó. Tuyên từng bị nó thôi miên đến mê man ngây dại, từng mượn nó giát vàng ngôi cao. Tuyên cũng từng hành xác, đày đọa, sỉ nhục và khinh bỉ nó. Nhưng chỉ một phút mềm lòng vì chợt nghĩ đến Tiên đế, Tuyên đã không bằm chết con ma chữ lớn nhất đời Tuyên là Kỷ. Vì mầm họa tưởng chừng vô hại đó, Tuyên đã phải ôm hận xuống mồ.
Chính Ngọ.
Gió đông cứng. Ngột ngạt.
Mặt trời bầm đỏ, đặc sệt như một đĩa tiết dê.
Bọn lính hè nhau đẩy những chiếc cũi nhốt tử tội xuống sông sâu. Tuyên khẽ rùng mình khi ngọc thể chạm vào làn nước lạnh giá. Nước ộc vào miệng vào mũi. Sặc sụa. Tuyên cười nghẹn. Mắt mờ dần. Thấp thoáng xung quanh Tuyên một bầy ma chữ kính cẩn theo hầu. Lần đầu tiên Tuyên thấy, ơ hay, mặt đứa nào đứa nấy đều thiện lương, tử tế cả.
TRIỀU LA VỸ



