Mỹ học “vụng dại” trong tranh của họa sĩ Xu Man

(VNGL – Nghiên cứu phê bình). LTS: Chiều 15.11 tại Bảo tàng Pleiku, hội thảo khoa học “Di sản nghệ thuật của họa sĩ Xu Man” do Bảo tàng Pleiku tổ chức, nhân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Xu Man (1925 – 2025). Hội thảo có sự tham gia của đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, Sở VH-TT&DL, Hội VHNT, Hội Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, các Bảo tàng: Pleiku, Quân khu 5, Quân đoàn 34,… đại diện gia đình cố họa sĩ Xu Man, các nhà nghiên cứu mỹ thuật và văn nghệ sĩ. Các tham luận và ý kiến trực tiếp tại hội thảo đã đánh giá thực trạng sưu tầm, lưu giữ, nghiên cứu di sản nghệ thuật của họa sĩ Xu Man; tôn vinh những đóng góp của ông đối với Mỹ thuật Gia Lai và nền Mỹ thuật Việt Nam; đồng thời gợi mở hướng bảo tồn, phát huy di sản của họa sĩ trong thời gian tới…
Tạp chí Văn nghệ Gia Lai giới thiệu tham luận của TS. Lưu Hồng Sơn tại hội thảo.

Đặt vấn đề
Họa sĩ Xu Man được đào tạo bài bản về hội họa, song người xem tranh lại thấy trong nhiều tác phẩm của ông thiếu vắng kỹ thuật tinh xảo, thậm chí không ít khi còn biểu lộ sự sơ sài, vụng về trong cách thức dùng màu sắc, tỉ lệ giải phẫu, đường nét. Chúng ta cũng thấy Xu Man như vẽ theo bản năng nghệ thuật, tự học không qua rèn luyện chuyên môn mà giới nghiên cứu phê bình gọi là “naive aesthetic” (nghệ thuật ngây thơ/ hồn nhiên), hoặc “folk art” (nghệ thuật dân gian), “nghệ thuật không học thuật”. Tuy nhiên ở phương diện khác, các tác phẩm của họa sĩ Xu Man lại thu hút người xem bởi cảm xúc tự nhiên chất phác và sinh động được biểu hiện trực tiếp bằng kỹ thuật thô vụng, đơn giản hóa hình thức, giống với nguyên lý tạo hình nguyên thủy.

Bác Hồ với Tây Nguyên, Dân làng đốt ấp chiến lược là những ví dụ được đánh giá cao về bố cục, tạo hình. Tranh của họa sĩ Xu Man

Tôi cho rằng, trong tư duy nghệ thuật của họa sĩ Xu Man cùng tồn tại hai thế giới: Thế giới thứ nhất là ý thức sáng tạo có chủ đích, lựa chọn thủ pháp và phong cách vụng dại cho phù hợp với năng lực và thiên tính nghệ thuật hướng về cái đẹp nguyên thủy và đại chúng của bản thân ông; Thế giới thứ hai là bản năng nghệ thuật vô thức tập thể sẵn có trong dòng máu cộng đồng người Tây Nguyên thời kỳ tiền hiện đại mà ông còn giữ được. Hai thế giới này, vừa hiển hiện vừa lặng lẽ, thúc đẩy và định hình phong cách chủ đạo trong sáng tạo nghệ thuật và đặc trưng thẩm mỹ cho các tác phẩm của Xu Man. Và như thế, ở phương diện lý luận, có thế xếp các sáng tác của họa sĩ Xu Man vào giao điểm của Mỹ học nguyên thủy (Primitive Aesthetics) và trường phái “Tân nguyên thủy” (Neo-Primitivism).

Những gợi ý từ lý thuyết nghệ thuật và thực tế sáng tạo của họa sĩ Xu Man
“Chủ nghĩa Tân nguyên thủy” là khuynh hướng sáng tạo theo nguyên lý quay về với nguồn cội nguyên sơ của nghệ thuật, ở một trình độ ý thức mới, không phải sao chép cái “nguyên thủy” một cách thô mộc – không phải là riêng có của Xu Man. Đó là một trào lưu, khuynh hướng sáng tạo được nhiều nghệ sĩ thế kỷ XX theo đuổi và xác lập thành tựu, vị trí trong lịch sử nghệ thuật với những tên tuổi tiêu biểu.
Thực tế tác phẩm của Xu Man biểu hiện khá rõ những đặc điểm của họa phái Tân nguyên thủy: hình tượng gần với nghệ thuật nguyên thủy bản địa: tượng mồ, họa tiết thổ cẩm, cây nêu biểu tượng mặt trời và vũ trụ…; tính ma thuật – nghi lễ (shamanism): hình tượng nhân vật được giản lược, phi cân đối.

Có điểm khác biệt quan trọng của Xu Man so với các họa sĩ Tân nguyên thủy phương Tây là, ông lấy chất liệu, nguyên thủy tính từ ngay căn tính văn hóa Tây Nguyên bên trong của mình, còn các nghệ sĩ phương Tây vay mượn nó từ thế giới khác.

Bản thân họa phái Tân nguyên thủy cũng không tồn tại biệt lập, mà bao gồm một số tính chất của các họa phái khác. Họa phái Tân nguyên thủy mặc dù ra đời sau, có ý hướng chống lại họa phái, Mỹ học Nguyên thủy (Primitive Aesthetics), nhưng thực tế nó cũng kế thừa, pha trộn với phái Nguyên thủy ở tinh thần chống lại chủ nghĩa duy lý – khoa học hóa trong nghệ thuật, muốn khôi phục chức năng thiêng – trực giác – cảm nghiệm tinh thần của nghệ thuật. Biểu hiện cụ thể qua nhiều phương diện:

– Tinh thần phản học thuật – chống quy phạm hàn lâm, khước từ chuẩn mực khuôn mẫu (tỷ lệ, phối cảnh, giải phẫu, kỹ xảo), coi trọng biểu đạt cảm xúc trực tiếp, bản năng, hơn là kỹ thuật “đúng – chuẩn”, xem tính “thô”, “vụng”, “chưa hoàn thiện kỹ thuật” được xem như giá trị thẩm mỹ.

– Tôn vinh sự nguyên sơ – vô thức – bản năng, cùng hướng về trạng thái tâm thức nguyên bản của con người (bản năng, vô thức, tiềm thức), đề cao “trẻ thơ tính” (child-like) trong sáng tạo, tin rằng nghệ thuật nguyên sơ có sức mạnh tinh thần và tính chân thật nguyên chất.

– Có thiên hướng tượng trưng – nghi lễ – huyền bí, khai thác biểu tượng, tín ngưỡng, totem, huyền thoại, ma thuật, siêu thực theo tinh thần dân gian.

– Sử dụng ngôn ngữ hình thể giản lược, hình khối thường được cách điệu, giản hóa, phác lược, không chú trọng mô tả thực tại như nó “đang là”, mà như nó được “cảm nhận” hoặc “tưởng tượng”, bố cục thường phi lý tính – phi tuyến tính.

– Chất liệu, màu sắc mang cảm giác thô mộc, táo bạo, nguyên chất, ít pha trộn cầu kỳ, đường nét mạnh, chắc, trực tính – giống tranh trẻ em, tranh dân gian, tranh tộc người.

– Gắn với văn hóa dân gian – nghệ thuật bản địa: lấy dân gian, bản địa, cổ truyền làm nguồn cảm hứng, như hình tượng dân tộc thiểu số, họa tiết trang trí truyền thống, thần thoại – truyện kể dân gian, đồ vật nghi lễ (mặt nạ, tượng gỗ, totem).

Tắm giọtGiã gạo là những ví dụ cho đặc tính: Coi trọng biểu đạt cảm xúc trực tiếp, bản năng, hơn là kỹ thuật “đúng – chuẩn”, “thô”, “vụng”, “chưa hoàn thiện kỹ thuật”, không tuân thủ chặt chẽ tỉ lệ giải phẫu; chất liệu, màu sắc mang cảm giác thô mộc, táo bạo, nguyên chất, ít pha trộn cầu kỳ, đường nét mạnh, chắc, trực tính – giống tranh trẻ em, tranh dân gian. Tranh của họa sĩ Xu Man

Vì thế, có thể được nhìn nhận hội họa của Xu Man như một “không gian trung chuyển thẩm mỹ” giữa mỹ học Nguyên thủy và Tân Nguyên thủy, trong đó ông vừa kế thừa tinh thần trực cảm – bản năng của Mỹ học Nguyên thủy, vừa triển khai những chiến lược thị giác và tư tưởng đặc trưng của Tân Nguyên thủy. Ở phương diện hình thức, Xu Man tiếp nhận các yếu tố “nguyên sơ” theo nghĩa cổ điển: nét vẽ phóng khoáng, tạo hình giản lược, bố cục không chú trọng luật viễn cận, sử dụng màu sắc nguyên chất và tính trực cảm mang sắc thái “đứa trẻ nhìn đời”. Những đặc điểm này khiến tranh ông gần với tinh thần nguyên thủy như một trở về bản năng tạo hình và sự chân thật ban đầu của cảm xúc – đúng với giá trị cốt lõi của Mỹ học Nguyên thủy.

Tuy nhiên, điểm làm nên bản sắc của Xu Man nằm ở chỗ ông không dừng lại ở trạng thái “nguyên sơ tự nhiên”, mà tái ý thức hóa và bản địa hóa nó theo tinh thần Tân Nguyên thủy. Cái “vụng dại” trong tranh ông không còn là sự ngẫu nhiên hay thiếu kỹ năng, mà là một thủ pháp có chủ đích nhằm giải thiêng những mô thức miêu tả Tây Nguyên quen thuộc; đồng thời, tạo ra một mỹ học “thô – mộc – hồn nhiên” nhưng giàu tính tự phản tỉnh. Nếu mỹ học Nguyên thủy từng có xu hướng ngoại chiếu, chiêm ngưỡng văn hóa khác như miền đất lạ, thì Xu Man triển khai ngược lại: ông nội chiếu, quay vào chính ký ức – di sản – tâm thức của cộng đồng Tây Nguyên để kiến tạo một diễn ngôn mỹ thuật từ bên trong. Ở đây, các hình ảnh sử thi, lễ hội, thần linh, cộng đồng làng được ông “Tân Nguyên thủy hóa”: vừa giữ năng lượng thiêng liêng – nguyên sơ, vừa mang tính đối thoại với đời sống đương đại, với ký ức văn hóa và sự biến đổi của bản sắc tộc người dưới sức ép hiện đại hóa.

Nhờ thế, hội họa Xu Man không mắc vào sự lãng mạn hóa, kỳ lạ hóa hay chiếm dụng chất liệu văn hóa bản địa theo mô hình Mỹ học Nguyên thủy cổ điển; đồng thời, cũng không cực đoan giải cấu trúc như một số khuynh hướng Tân Nguyên thủy phương Tây. Ông tạo ra một điểm cân bằng hiếm: vừa bảo lưu “năng lượng nguyên thủy” của hình tượng, vừa đặt nó trong ngữ cảnh tư tưởng – xã hội đương đại, để hình thành một mỹ học dung hòa: Nguyên thủy về cảm năng – Tân Nguyên thủy về ý thức. Chính sự dung hòa này tạo nên giá trị đặc thù của Xu Man trong mỹ thuật Việt Nam, góp phần mở rộng ngữ vực của Tân Nguyên thủy theo hướng bản địa hóa, giàu tính cộng đồng và ký ức văn hóa.

Thay cho lời kết
Xin được lưu ý rằng, tuy họa sĩ Xu Man theo đuổi phong cách, kỹ thuật đơn giản giàu tính dân gian, song chúng ta cũng thấy rằng, không ít tác phẩm của ông được đánh giá cao về bố cục, tạo hình, kỹ thuật, như chùm tác phẩm chủ đề “Bác Hồ với Tây Nguyên”, cuộc kháng chiến của Nhân dân Tây Nguyên chống Pháp, chống Mỹ. Và ông không cực đoan chủ nghĩa, mà vẫn vui vẻ đón nhận những phong cách, kỹ thuật khác thậm chí trái ngược với mình, vì thế chúng ta thấy khá nhiều tác phẩm của Xu Man có sự kết hợp với họa sĩ Huỳnh Văn Thuận, cho ra đời những tác phẩm có có tính kỹ thuật tỉ mỉ, chi tiết ở thể loại sơn khắc.

Có thể thấy Xu Man là một trường hợp khá hiếm hoi trong mỹ thuật Việt Nam đương đại, khi lựa chọn và duy trì một mỹ học vụng dại vừa như “bản năng nguyên thủy” vừa như “chiến lược nghệ thuật”. Nếu trong lịch sử mỹ thuật thế giới, chủ nghĩa Tân Nguyên thủy xuất hiện như một phản ứng của nghệ sĩ phương Tây trước sự bế tắc của nghệ thuật hàn lâm, với khát vọng tìm lại cội nguồn của cái đẹp nguyên sơ từ những nền văn hóa “khác mình”, thì ở Xu Man, “nguyên thủy” không phải đi tìm hay vay mượn từ bên ngoài. Nó ở trong máu thịt văn hóa, là di sản tâm linh – thẩm mỹ của Tây Nguyên mà Xu Man kế thừa một cách tự nhiên.

Mỹ học vụng dại ở Xu Man khác biệt với nhiều họa sĩ khác ở tính “bản địa nội sinh”: nó không phải sản phẩm của sự cách điệu tinh luyện, không phải chủ nghĩa biểu hiện đô thị, cũng không phải chiến lược tạo sốc thị giác. Đó là một mỹ học tự thân, phát sinh từ căn tính văn hóa Bana – Jrai, từ trí nhớ cộng đồng, từ ngôn ngữ nghi lễ sinh tồn qua bao thế hệ.

Vì vậy, khi tiếp cận tranh Xu Man, người xem không chỉ đứng trước một hệ ngôn ngữ tạo hình “ngây thơ – thô mộc – đơn sơ”, mà còn đối diện với một trường năng lượng văn hóa nguyên thủy đang tiếp tục sống, ở dạng được ý thức hóa trong nghệ thuật hiện đại. “Vụng dại” ở đây không còn mang nghĩa thiếu kỹ thuật, mà trở thành một thẩm mỹ đối kháng với sự khôn ngoan, cầu kỳ, kỹ xảo của mỹ thuật hiện đại. Nó trả lại cho nghệ thuật phẩm chất sơ khai nhất của nó: chạm vào cảm xúc gốc, chạm vào linh hồn người xem không qua lớp vỏ kỹ thuật.

Hạnh phúc, Làm sạch thóc nộp cho nhà nước là những tác phẩm được đánh giá cao về kỹ thuật tỉ mỉ, bởi có sự tham gia của họa sĩ Huỳnh Văn Thuận. Tranh của họa sĩ Xu Man

Xu Man tự chọn sự “vụng dại” như một chiến lược nghệ thuật, không mượn hình ảnh “nguyên thủy” từ bên ngoài, mà khơi dậy nó từ chính căn tính văn hóa Tây Nguyên – nơi di sản tinh thần, nghi lễ và ký ức cộng đồng vẫn thấm đẫm trong máu thịt và cảm năng sáng tạo. Cái “vụng” ở Xu Man vì thế không phải là thiếu cái khéo, mà là sự phản tỉnh về cái khéo; không phải là sự nghèo nàn về kỹ thuật, mà là lựa chọn thẩm mỹ nhằm gìn giữ linh hồn nguyên sơ của nghệ thuật.

Tranh của họa sĩ Xu Man vừa mang sức sống bản năng, hồn nhiên của mỹ học nguyên thủy, vừa biểu hiện ý thức hiện đại hóa, tái khẳng định bản sắc dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa – một tinh thần đặc trưng của Tân nguyên thủy. Vụng dại trở thành ngôn ngữ, trở thành cách Xu Man kiến tạo lại “năng lượng thiêng”, “năng lượng riêng” của hình tượng, tái kết nối nghệ thuật với cộng đồng và ký ức văn hóa.

Vì vậy về phương diện lý luận có thể nói rằng sáng tác của họa sĩ Xu Man là sự kết nối giao hòa của Mỹ học Nguyên thủy và phái Tân Nguyên thủy – nơi cái “vụng” và cái “tân” hòa quyện, tạo nên một mỹ học bản địa độc đáo, vừa cổ sơ vừa hiện đại, vừa dân gian vừa trí tuệ, góp phần làm giàu thêm cho bản đồ mỹ thuật Việt Nam.

Trên đây là vài ý kiến cá nhân của tôi xuất phát từ thực tế xem tranh của họa sĩ Xu Man và muốn tìm cách lý giải những tầng sâu về ý hướng sáng tạo của ông. Và tôi nghĩ rằng cần phải viện dẫn đến lý thuyết làm điểm tựa cho các diễn giải thử nghiệm của mình, mà hoàn toàn không phải là cố gắng gò ép các sáng tạo sinh động của họa sĩ Xu Man vào một khuôn khổ lý thuyết khô cứng phiến diện nào. Tôi cũng xin nhấn mạnh rằng, đây chỉ là một góc nhìn, cố gắng phát hiện mới và hữu lý, về thế giới nghệ thuật của họa sĩ Xu Man, chứ không phải toàn bộ diện mạo, cá tính nghệ thuật của ông.

Họa sĩ Xu Man (1925 – 2007) tên thật là Siu Dơng, là người Bana, sinh năm 1925 tại làng Đe Krăl, nay là Plei Bông, xã Ayun tỉnh Gia Lai. Ông được xem là cánh chim đầu đàn, người đặt nền móng, người mở đường cho mỹ thuật hiện đại của Tây Nguyên. Ông đã dành hơn 40 năm cống hiến và theo đuổi con đường hội họa. Ông đã vẽ hàng nghìn tác phẩm thuộc nhiều thể loại, kích thước, tham gia nhiều triển lãm mỹ thuật, hội họa; tham gia đào tạo mỹ thuật cho cán bộ văn hóa tại Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum nhiều năm. Không kể sưu tập tư nhân và nước ngoài, chỉ tính riêng các bảo tàng trong nước, đến nay chúng ta còn thấy hơn 100 tác phẩm được sưu tập, trưng bày, lưu trữ tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Gia Lai. Với những thành tựu và đóng góp to lớn cho nền mỹ thuật của Việt Nam, năm 2012, họa sĩ Xu Man được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật ở lĩnh vực mỹ thuật.

TS. LƯU HỒNG SƠN (Bảo tàng Pleiku)

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Nương tiếng bạn tìm màu ban sơ…

Thơ Phạm Văn Phương không cầu kỳ kỹ thuật. Chúng chân thật đến mức có thể bắt gặp ở đó hơi thở của một người đàn ông luôn sống với ký ức, trung thực với cảm xúc của chính mình…

Hơi thở của sự lặng im…

Từ bông hoa đã lụi tàn – bằng một cách chậm rãi, nhà thơ kể cho chúng ta nghe một câu chuyện, một dạng cấu trúc tự sự, có khởi đầu, vận động, và kết thúc..