Như cây gỗ trắc giữa rừng Tây Nguyên

(VNGL – Bút ký). Ngay từ nhỏ, Rơ Châm Toàn đã thấy gia đình mình, làng mình sống trên đất Campuchia, tại huyện Ouyadav, tỉnh Ratanakiri. Là thời chiến tranh loạn lạc, cứ dọc miền rừng biên giới, người Jrai đi qua lại, tránh nơi bom đạn, tới nơi bình yên. Cả làng cùng làm nhà sàn tranh tre tạm bợ, phát nương làm rẫy và nuôi giấu cán bộ kháng chiến.

Ba ông Toàn tham gia hoạt động du kích. Ông luôn có một cuốn sổ ghi chép đủ thứ bên mình. Một hôm, có người cán bộ an ninh bí danh là Thành Đồng, tên thật Lương Văn Trưng, quê Núi Thành – Quảng Nam về ở trong nhà. Khi ba đưa quyển sổ ra ghi chép với ông Thành Đồng, Rơ Châm Toàn ngồi chơi bên cạnh, khách nghĩ đứa trẻ không biết tiếng Kinh, không biết mặt chữ nên cứ mặc nhiên bàn chuyện riêng tư không hề cảnh giác. Tình cờ thấy ba giở sổ ghi chép, theo phản ứng tự nhiên Rơ Châm Toàn nhẩm đọc lại những dòng chữ ông vừa viết ra. Ông Thành Đồng thấy vậy thì vô cùng ngạc nhiên. Hóa ra đứa trẻ xứ rừng núi heo hút này cũng biết đọc chữ! Ông hỏi lại ba Toàn thì biết cậu chẳng có học trường lớp nào, chỉ nhìn theo ông viết sổ, vặn hỏi rồi biết đọc. Ôi, đây là một đứa trẻ thông minh! – Ông Thành Đồng thầm nghĩ.

Bất ngờ ông Thành Đồng đặt vấn đề với cha mẹ cho Rơ Châm Toàn đi thoát ly theo kháng chiến. Đó là năm 1972, Toàn vừa mười sáu tuổi.

***

Sau khi xa gia đình, Rơ Châm Toàn được dẫn về Việt Nam, xuống ngay căn cứ ở xã Krong, khu 10 (tương đương với địa bàn Kbang tỉnh Gia Lai hiện nay). Với vốn tiếng Kinh sẵn có, lại giỏi đường rừng, Toàn được giao nhiệm vụ làm liên lạc của Ban An ninh, hàng ngày mang thư và công văn do ông Lưu Hồng Hà giao đưa từ xã Kon Pne về xã Krong (khu 10) cho cán bộ lãnh đạo tỉnh, thời ông Đẳng làm bí thư, ông Ksor Ní làm chủ tịch. Phần lớn những chuyến công cán của Toàn là một mình một súng AK, vượt hàng chục cây số đường rừng đầy vắt và thú dữ. Kon Pne thời trước, có lúc cũng từng là căn cứ của tỉnh. Để vào được đất ấy phải vượt qua một con dốc dài luồn lách dưới rừng già đại thụ. Mái núi bên kia lại dựng đứng thăm thẳm. Trên con đường ấy, Toàn cứ thoắt ẩn thoắt hiện như con sóc rừng.

Giai đoạn 1974 – 1975, Rơ Châm Toàn được cử sang lĩnh vực công tác khác. Là đi móc nối cơ sở, thu nhận tin tức từ trong vùng địch chiếm.

Có lúc Rơ Châm Toàn cùng với một số cán bộ phải xuống vùng đồng bằng huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định xây dựng và tiếp cận mạng lưới cơ sở để nhận thông tin, tin tức của địch. Bằng những cách nào đó những người dân cơ sở trong vai dân buôn bán đường dài lên Pleiku – Gia Lai làm ăn. Khi về, họ đem theo thư từ thông tin từ trong vùng địch gửi ra. Cán bộ trên Gia Lai phải đi bộ luồn rừng về miền xuôi móc nối quan hệ, nhận các văn bản báo cáo tình hình đem về cho tỉnh.

Có thời điểm, Rơ Châm Toàn được cử về hoạt động tại xã Kon Gang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai để gây dựng cơ sở tại các làng người Bahnar. Ban ngày ăn ở tại làng, đêm xuống sẽ nhìn theo ánh đèn điện phố Pleiku mà đi lên hướng Tây về địa bàn Lệ Cần, nơi có giống khoai lang nổi tiếng. Tại đó, căn cứ vào tin báo, Rơ Chăm Toàn cùng với đồng đội sẽ xâm nhập nghĩa địa thôn trong đêm tối để lấy tài liệu mật tại các “hộp thư chết”, ngay các bia mộ. Trước đó, nhóm công tác đã có hiệp đồng với cơ sở bằng cách thông qua một người tài xế xe bò vàng chở gỗ rừng, vùng Hà Bầu, nơi tiếp giáp dãy Kon Ka King sừng sững với rất nhiều gỗ quý. Một số người buôn bán đồ ăn cho dân sơn tràng được bác tài nhắn cho mấy lời, đại ý: Ngày mai trên này có giỗ, bác trai nhắn mời bà con dưới này lên thắp hương!

Việc đi nhận tài liệu ở Lệ Cần toàn đi về đêm, xuyên rừng rậm. Hồi mới đi, khi lên cứ theo ánh điện Pleiku mà định hướng, khi về trời tối đen thì lạc vào làng lạ. Đụng hàng rào, chuông reo inh ỏi, chó sủa râm ran, suýt lộ; cả toán chạy trối chết, may mà lần mò được đường trở về an toàn.

***

Trong chiến tranh, hóa ra việc đi học cũng không phải dễ dàng như cách Rơ Châm Toàn từng ao ước. Muốn học văn hóa phải về Khu 5, tận Quảng Nam xa biền biệt. Mà cũng chẳng có mấy cơ hội để đi. Toàn chỉ còn con đường vừa phục vụ công tác vừa học hỏi, học qua công việc, học qua thực tiễn; đồng thời tranh thủ nhờ những người có trình độ chữ nghĩa hướng dẫn chỉ bảo thêm cho. Một cách học nữa là qua giao tiếp để biết thêm một ngôn ngữ trên đất Tây Nguyên là tiếng dân tộc Bahnar; tìm hiểu văn hóa các tộc người, các vùng đất bản thân từng đặt chân đến. Nhờ sự ham học hỏi thực tế đời sống, Rơ Châm Toàn là người khá thấu hiểu về truyền thống văn hóa Jrai, Bahnar… Những thành quả ấy đã giúp Rơ Châm Toàn một cách đắc lực khi được tổ chức phân công về hoạt động tại các địa bàn cơ sở.

Ông Rơ Châm Toàn (trái) trò chuyện cùng tác giả. Ảnh: P.Đ.L

Khi được điều động về vùng sâu vùng xa, những địa bàn nóng làm công tác dân vận, chống lực lượng Fulro xâm nhập, Rơ Châm Toàn đã có rất nhiều thuận lợi, từ thấu hiểu ngôn ngữ lời ăn tiếng nói cho đến phong tục tập quán, quen phong thổ núi rừng… Với thế mạnh ấy, khi xuống địa bàn tăng cường, ông cứ nhằm nhà các đối tượng mà ở. Ông thường tâm niệm: “Nơi nguy hiểm nhất cũng là nơi an toàn nhất!”. Thực ra thì ông quá hiểu người Tây Nguyên rất sợ đổ máu, chết người trong nhà gây xui xẻo. Có chuyện bất trắc, gia chủ phải giết mấy con trâu trắng để cúng Yang rất tốn kém, lại phải chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt của làng. Ở trong nhà đối tượng, mình làm tốt công tác dân vận, hiệu quả cũng được nâng lên nhiều lần. Hằng ngày, ông luôn tranh thủ thời gian rỗi tham gia làm việc với dân, tắm giặt, cắt tóc cho trẻ nhỏ… Những công việc đơn giản ấy, không ngờ lại gieo vào lòng dân những tình cảm rất sâu nặng.

Các đợt đi cơ sở làm Chứng minh Nhân dân cho người các làng Tây Nguyên vào những năm 1979 – 1980 dù phải lội rừng vất vả, có người từng bị Fulro giết, nhưng nhờ vốn ngôn ngữ, vốn văn hóa các sắc tộc, Rơ Châm Toàn luôn được dân gần gũi thương yêu tạo mọi điều kiện thực hiện tốt công việc.

Những đợt tham gia công tác đội phong trào của Công an tỉnh đưa máy đi chiếu phim các làng vùng sâu vùng xa phục vụ bà con, nhờ có vốn ngôn ngữ địa phương phong phú, Rơ Châm Toàn đã làm tốt công tác thuyết minh tiếng Jrai, tiếng Bahnar cho các bản phim. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cho những vùng dân cư ít có điều kiện giao lưu xã hội rộng rãi.

***

Năm 1976, Rơ Châm Toàn lập gia đình với Ra Lan Hơ Minh, là người cùng quê, lúc ấy lại là học sinh cùng lớp phổ thông dân tộc nội trú của tỉnh. Rơ Châm Toàn là dân trong núi ra, Ra Lan Hơ Minh là học sinh từ miền Bắc chuyển về.

Bà Minh từng là thành viên của đoàn thiếu niên Gia Lai gồm 100 em (94 em nam, 6 em nữ) đi bộ vượt Trường Sơn ra Bắc đợt 1972. Đoàn trẻ em đi theo đường giao liên trong rừng cùng với đoàn bộ đội thương binh đi ra Bắc điều trị an dưỡng, do một chú bộ đội tên Hùng phụ trách. Đến địa điểm B3 bên kia sông Pô Cô(1), đoàn được dừng lại nghỉ một tháng để đo thân cắt may quần áo mũ, đóng dép, may võng màn, ba lô… Vì vậy chuyến đi vượt Trường Sơn của đoàn bà Minh mất tổng cộng bốn tháng mới ra đến miền Bắc.

Sau năm 1975, bà Minh được chuyển về Gia Lai tiếp tục học cấp I thêm một năm tại trường Dân tộc nội trú tỉnh tại Pleiku, sau đó chuyển lên học Trường bổ túc Công nông tại thị xã Kon Tum.

Ước mơ học tập văn hóa của ông Toàn đến ngày hòa bình thống nhất thì được toại nguyện, phần lớn là học theo chương trình bổ túc. Năm 1975 – 1978 ông được cử đi học bổ túc Công nông Gia Lai – Kon Tum hết cấp I. Lên cấp II ông phải đi học tại Đắk Lắk. Đến cấp III ông Toàn lại được về học tại huyện Đức Cơ – Gia Lai. Sau đó ông được tổ chức cho tham dự khóa đào tạo Trung cấp An ninh. Từ năm 2000 – 2003 ông được cử đi học cao cấp chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia phân viện Đà Nẵng.

***

Những năm ông Rơ Châm Toàn công tác tại Công an tỉnh, cũng là quãng thời gian gia đình gặp rất nhiều khó khăn. Ông kể, trong khoảng 15 năm công tác sau hòa bình (1975 – 1990), ông không hề đưa về cho vợ con được đồng tiền lương nào. Thời điểm đi học ở Đà Nẵng, ba ông còn phải phụ thêm tiền cho việc chi tiêu. Ngồi trước mặt vợ, ông Toàn nói vui: “Lương công an mười mấy năm không mua nổi chiếc xe đạp, may nhờ bà xã đảm đang đến năm 1986 mới có chiếc xe đạp để đi!”. Bà nhìn ông cười vui hạnh phúc, rồi nói: “Thật đó, là năm 1986, thấy tội ông quá. Đi đâu cũng phải lọc cọc cuốc bộ, mới nảy ý đổi mấy con heo lấy cái xe đạp để chồng đi về cho thuận lợi”. Từ năm 1991, bà Minh mới biết được đồng tiền lương của chồng.

Nhờ có người vợ năng động, tích cực mà gia đình ông Toàn vượt qua bao khó khăn, hoạn nạn. Nhớ nhất là trận cấp cứu hai đứa con hồi năm 1983 còn trong xã vùng sâu biên giới Ia Pnon; con bé Ra Lan Hơ Tâm và thằng Ra Lan Vinh, đứa ba tuổi, đứa hai tuổi bỗng đau bụng quằn quại, rốn gò lên khó thở. Người làng nghi ngờ bị thư hay bắn dèng ma lai(2) gì đó. Ai cũng hoảng sợ. Không dám nhờ voi, hai ông bà kiên quyết cõng con về tỉnh để chữa trị. Ông cõng đứa chị, bà cõng đứa em từ làng ra đến ngã ba Sung Le thuộc xã Ia Kla, suốt quãng đường rừng 20 cây số. Đón mãi một ngày không có xe, tối đến đành phải vào làng Sung Le xin nghỉ nhờ. Sáng hôm sau lại phải cõng bộ con đi tiếp 25 cây số nữa để đến Thanh An ngủ lại chờ bắt xe đò về Pleiku. Chuyến đi mất ba ngày hai đêm quá vất vả, nhưng kết quả thì vô cùng may mắn. Đến bệnh xá công an tỉnh, các cháu được đích thân ông Phó Đức Chinh là bệnh xá trưởng trực tiếp thăm khám, chỉ lệnh điều trị. Bệnh xá cho xổ thuốc giun, mỗi đứa tháo ra gần cả tô giun, ai cũng khiếp. Về làng ai cũng kinh ngạc, hóa ra không phải bị thư hay bắn dèng!

Năm 1980, vợ chuẩn bị đẻ, ông Toàn xin nghỉ phép về nhà. Đợt ấy lại xảy ra một loạt sự việc. Đầu tiên vợ đẻ sinh đôi, không thể để vợ tự xoay xở theo kiểu cổ truyền thời xưa được, ông trực tiếp đỡ đẻ thành công tại nhà.

Tiếp sau đó là sự kiện ba ông bị đau ốm rồi qua đời.

Ba ông là cơ sở nuôi giấu cán bộ kháng chiến từ năm 1960 bên đất Campuchia, năm 1974 quận Thanh An được giải phóng, gia đình ông cùng cả làng trở về Việt Nam. Sau năm 1975 ông làm cán bộ xã đến lúc qua đời.

Đúng lúc ấy, căn nhà sàn lại tụt mái quá dột nát, không đủ che nắng che mưa. Nhất là trời mưa thì mọi thứ đều bị ướt nhẹp. Cỏ tranh không có, đất đỏ vùng ấy chỉ có lá trung quân lợp được nhà. Nhà lợp lá trung quân thì bền, không sợ cháy gây hỏa hoạn, nhưng làm tranh và lợp thì quá cầu kỳ và tốn công. Lá phải gài thành phên tranh, dỡ khung mái xuống đất mà lợp. Lợp xong phải nhờ cả làng khênh mái nhà đưa lên úp vào trụ cột như cũ.

Chế độ phép được một tháng mà bao nhiêu việc ngổn ngang mất hết mấy tháng vẫn chưa xong. Ông Phó Đức Tấn, Phó giám đốc Công an tỉnh thấy ông Rơ Châm Toàn đi phép đã quá hạn, mà cũng không có cách gì để nắm bắt thông tin. Nóng ruột quá, ông bảo nhân viên hành chính chi lương, mua gạo và giải quyết chế độ mấy tháng cho ông Toàn rồi điều xe ô tô cơ quan chở xuống tận làng.

Khi biết rõ sự việc, thủ trưởng động viên thăm hỏi gia cảnh, rồi quyết định cho nghỉ thêm một thời gian nữa.

Lợp xong nhà ông Toàn vội về gấp cơ quan. Lại giao khoán mọi việc nhà cho vợ!

***

Ông Rơ Châm Toàn nghỉ hưu với hàm đại tá công an, sau 15 năm giữ chức Phó công an huyện Đức Cơ (1999 – 2014). Bất ngờ gần đây ông bỗng dưng đổ bệnh. Vào bệnh viện Quân đội 175, ông được mổ phanh lồng ngực, lấy mạch máu ở cổ chân phải nối vào mạch máu ở tim. Ca phẫu thuật trải qua mười tiếng đồng hồ, lồng ngực được đóng lại bằng vít sắt để chống sập. Sau hơn nửa năm mổ ngực chữa tim, đến nay ông Rơ Châm Toàn đã gần như hồi phục, ông lại vui vẻ lạc quan như xưa. Ở tuổi 70, ông Rơ Châm Toàn khoan thai nhẹ nhõm trong cuộc sống, tràn trề niềm vui với đùm đề con cháu. Các con ông gái trai dâu rể đều đã qua bậc đại học, có đứa cao học; thành kỹ sư, bác sĩ, sĩ quan; có công ăn việc làm ổn định. Một niềm vui tuổi già giản đơn và mãn nguyện. Đó là kết cục tốt đẹp của một giấc mơ về con chữ hiện hữu trong đời ông!

Trải những năm khó khăn gian khổ, cuộc đời công tác hình như đã luyện nên trong ông một tinh thần sắt đá, niềm tin vượt mọi gian nan, như cây gỗ trắc trong rừng Tây Nguyên, càng cằn cỗi, lõi càng rắn chắc, càng làm nên những vân sắc mượt mà bóng bẩy.

PHẠM ĐỨC LONG

(1) Một địa danh thời kháng chiến giữa hai bờ sông Pô Cô, một bên là xã Ia O, huyện ia Grai, Gia Lai ngày nay; bên kia là xã Nhang, huyện Đôn Hia, tỉnh Natarakiri, Căm Pu Chia. Đây là địa điểm thường tập hợp các em bé vùng Bắc Tây Nguyên trước lúc vượt Trường Sơn ra Bắc.

(2) Các loại bệnh nhiều đời nay hư hư thực thực nhưng người Tây Nguyên vẫn tin có kẻ gây ra để giết người. Thư là bỏ chất độc vào thức ăn thức uống để hại người. Ma Lai là cách hại người kiểu ám thị, trù ẻm. Bắn Dèng là thuật bắn những mũi tên vô hình làm cho người khác bị đau và chết.

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Xóa nhà tạm, dựng niềm tin…

Tôi đến làng Chồm khi mặt trời như treo lửa ngay trên đỉnh đầu. Đây là làng mà những người lính đang cắm chốt để hỗ trợ người dân trong công tác xóa nhà tạm…