Thành cổ mùa sương giăng

(VNGL – Bút ký). Đứng giữa núi rừng An Lão – Hoài Nhơn, đặt tay lên những phiến đá rêu phong của Trường Lũy, tôi có cảm giác như đang chạm vào đường gân cốt của đất. Những lớp đá chồng lên nhau, uốn lượn theo triền núi, lặng lẽ mấy trăm năm qua, như chứng nhân của bao đổi thay nơi miền biên viễn một thời.

Trăm năm Trường Lũy
Ngày cuối tháng Tám, trời như vào độ thu. Tôi theo đoàn khảo cổ ngược về phía núi để thực địa Trường Lũy. Con đường từ Quy Nhơn lên miền thượng cứ dốc dần, mỗi khúc cua lại mở ra một tầng mây mỏng. Cái rượi mát của núi rừng An Lão làm người ta như chạm được hơi thở nguyên sơ của đất. Gần ba giờ đi đường, núi rừng mở ra, mây quấn quanh triền đồi. Điểm đến đầu tiên là Đồn An Quang, nằm trên một ngọn đồi cao. Cả đoàn men theo lối mòn nhỏ xuyên rừng keo, từng bước chạm vết tích xưa.

Nhiều người tỏ ra khá thích thú với dấu xưa Trường Lũy. Đồn An Quang vẫn còn giữ được dáng vẻ tương đối nguyên vẹn, hình thể vuông vức mà hơi nghiêng, gần như một khối bình hành in xuống đất rừng. Cổng đồn mở về phía Nam, hướng ra sườn dốc phủ đầy cỏ. Toàn bộ công trình xây theo trục Bắc – Nam, hoàn toàn bằng đá hoa cương tự nhiên, những phiến lớn nhỏ xen kẽ, ghép khít vào nhau không cần vôi vữa. Bên ngoài là lớp đá ốp dày, bên trong đắp bằng thứ đất nâu đỏ đặc quánh, đã “hóa cứng” cùng năm tháng. Bao quanh đồn là một đường hào hẹp, sâu nông tùy chỗ; đất đào lên từ hào lại được tận dụng để bồi đắp cho phần lõi tường, như vòng tay đất mẹ ôm giữ lấy đứa con bằng đá của mình qua bao mùa mưa nắng.

Nhìn vết dấu Trường Lũy hiện ra rõ rành trước mắt, tôi chợt nhớ một ngày đông ẩm năm 2022. Khi ấy, tôi lên nhà người bạn ở La Vuông và được bạn dẫn men theo lối mòn lên núi Chúa. Từ trên cao, sương giăng khắp thung ngàn, mờ ảo như tranh lụa. Giữa sương ấy, lần đầu tôi nhìn thấy những vệt đá nối dài, đắp chồng lên nhau giữa triền đồi. Bạn nói, đó là Trường Lũy, nối Hoài Nhơn quê bạn sang An Lão, rồi sang cả tỉnh khác.

Theo các nhà khoa học, Trường Lũy là công trình quân sự cổ có quy mô lớn nhất miền Trung, trải dài hơn 127 km, đi qua Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định (cũ). Riêng phần thuộc Bình Định dài hơn 14 km, thực tế theo địa hình quanh co có thể tới gần 19 km. Trường Lũy là hệ thống phức hợp gồm hào, đồn/ bảo và đường cổ, một công trình vừa quân sự, vừa giao thương, vừa mang dấu ấn văn minh. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang, các bộ chính sử của triều Nguyễn, như: Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí… đều có ghi chép về Trường Lũy. Những mô tả về Trường Lũy hay “Bình Man lũy” được tập trung khá chi tiết trong sách Viêm Giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục (1900). Trong đó, Nguyễn Tấn, vị quan chỉ huy Trường Lũy trong những năm 1860, đã viết trong sách Vũ Man Tạp lục thư: “Quận công Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường Lũy, Nam giáp ranh giới Bồng Sơn tỉnh Bình Định, Bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (Núi Thành) tỉnh Quảng Nam”. Còn trong Đồng Khánh địa dư chí, có viết rằng: “Lũy dài Tĩnh Man: Cách phía Tây thành tỉnh 23 dặm. Phía Bắc giáp địa giới huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp địa giới huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, dài 177 dặm. Nguyên tả quân Lê Văn Duyệt vâng mệnh xây đắp”.

Dấu tích còn khá rõ về cửa đi của một đoạn di tích Trường Lũy khai quật tại đồn An Quang. Ảnh: Đ.L

Người ta cho rằng, niên đại của Trường Lũy bắt đầu từ thế kỷ XVI, thời người Việt bắt đầu mở đất phương Nam, dựng nên những đồn bảo đầu tiên để giữ yên vùng biên viễn. Sang triều Nguyễn, đặc biệt vào năm 1819, công trình được mở rộng, nối dài, thành một dải phòng thủ kiên cố hơn, vừa bảo vệ miền xuôi vừa kiểm soát đường giao thương lên miền thượng. Một vài nghiên cứu mới còn cho rằng, đoạn lũy ở Gia Lai được xây muộn hơn, khoảng năm 1876, như một nét vẽ nối tiếp, gắn kết hai miền xuôi – ngược trong dòng chảy chung của lịch sử.

Từ những năm 2010, Trường Lũy ở Bình Định bắt đầu được các nhà khoa học của Viện Khảo cổ học, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp và Bảo tàng tỉnh Bình Định (nay là Bảo tàng tỉnh Gia Lai) chú ý đến. Những chuyến điền dã, những lần khảo sát nối tiếp nhau đã dần khơi dậy diện mạo của một công trình cổ từng lẫn khuất trong mây núi. Đến năm 2012, Bảo tàng tỉnh phối hợp với Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp và Viện Khảo cổ học Việt Nam tổ chức cuộc khai quật đầu tiên tại di tích Đồn Thứ (nay thuộc La Vuông, phường Hoài Nhơn Bắc). Kể từ đó, từng lớp đất, từng vạt rừng lại được mở ra qua nhiều đợt khai quật tiếp nối.

Gần đây nhất, từ tháng Năm đến tháng Sáu năm 2025, Bảo tàng tỉnh Gia Lai phối hợp cùng Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ tiến hành khai quật ba điểm: Đồn H4 (thôn 4, xã An Lão), Đồn Dông Hầm (thôn 5, xã An Lão) và Đồn An Quang (thôn 2, xã An Hòa). Khi từng lớp đất được bóc tách, từng phiến đá lộ dần trong ánh nắng rừng, những dấu tích nền móng, những mảng kè đá, tro than, mảnh gốm… dần hiện ra, tựa hồ như những trang sử cũ đang khẽ mở…

Một đoạn tường thành đồn An Quang. Ảnh: Đ.L

Tiến sĩ Huỳnh Vĩnh Phúc (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) kéo tay tôi, chỉ về phía hố khai quật đang mở loang dưới nắng chớm An Quang, giọng phấn khởi: “Chúng tôi ở đây đã hàng tháng trời. Càng đào xuống, càng thêm thích thú với những dấu tích của người xưa. Có thể thấy, kỹ thuật xây dựng Trường Lũy thể hiện một khả năng thích ứng địa hình tuyệt vời. Người xưa dùng chính đất đá tại chỗ: có đoạn chỉ toàn đá, có đoạn đất đắp trong, đá kè ngoài. Mỗi đồn đều có chòi canh, có lối ra vào riêng. Đó là cả một tư duy quân sự tinh tế, chặt chẽ đến khó tin”. Tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung Kiên, Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, người dẫn đầu đoàn khảo cổ, khái quát: “Trường Lũy Bình Định, tuy ngắn hơn so với phần lũy thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhưng được đánh giá là đoạn còn giữ được nhiều hình thái kiến trúc và cấu trúc vật liệu khá nguyên vẹn trong toàn tuyến. Theo sử liệu triều Nguyễn, toàn bộ hệ thống Trường Lũy Quảng Ngãi – Bình Định giai đoạn cao điểm có tổng cộng 115 đồn/ bảo được lính triều đình luân phiên canh giữ…”.

Thực địa xong đồn An Quang, chúng tôi tiếp tục đến Dông Hầm và H4. Nhìn bức tường đá chạy dài trong mây sớm, tôi mường tượng, hẳn đã có thời, tiếng kèn lệnh vang vọng, binh lính triều Nguyễn đứng gác lưng tựa núi, mắt dõi về đồng bằng. Dưới ánh trăng, tường đá uốn lượn như con rắn khổng lồ trườn giữa rừng sâu, giữ cho miền biên cương yên ổn.

Mở hướng giao thương
Theo Lý lịch di tích Trường Lũy Bình Định (Bảo tàng tỉnh Bình Định, 2012), vùng núi phía Tây Bồng Sơn xưa vốn là không gian sinh sống của người H’rê, những cư dân gắn bó với núi rừng, với sông suối và khói bếp ngàn đời. Từ năm 1802 đến 1876, dải đất này từng nhiều lần dậy sóng. Người H’rê nổi dậy chống triều Nguyễn, những cuộc khởi nghĩa nối nhau suốt các năm 1825, 1829, 1831, 1834, 1857, 1858, 1860… như những đợt sóng tràn lên triền núi. Để quản lý vùng biên, triều đình đã lập hai “nguồn”: Trà Vân và Trà Bình, là những đơn vị hành chính đặc biệt vừa mang chức năng quân sự, vừa là nơi kiểm soát thương mại, thu thuế.

Nhưng đến thập niên 1870, những cuộc nổi dậy của người H’rê vẫn tiếp diễn, như ngọn lửa âm ỉ chưa bao giờ tắt. Vua Tự Đức khi ấy đã chấp thuận đề xuất của Tổng đốc Bình – Phú là Phạm Ý, cho đắp “Lũy Bình Man” ở vùng Bình Định. Bức tường ấy nối dài Trường Lũy Quảng Ngãi – công trình được khởi xây từ năm 1819 dưới thời Tả quân Lê Văn Duyệt. Từ đó, một dải trường thành bằng đá, bằng đất, bằng cả mồ hôi và khát vọng, vươn mình giữa đại ngàn, trở thành “xương sống” của miền Trung, nối liền núi rừng và đồng bằng, người miền ngược và người miền xuôi.

Các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, thuở ban đầu, Trường Lũy mang sứ mệnh phòng thủ, là tuyến biên giới chiến lược giúp triều Nguyễn kiểm soát vùng tiếp giáp giữa người Việt và các tộc H’rê, Ba Na. Nhưng thời gian, với cách nó vẫn làm, đã biến bức tường phòng thủ thành con đường giao thương tấp nập. Trên những triền dốc, người H’rê, Ba Na gùi mật ong, mây tre, gỗ quý… xuống miền xuôi đổi lấy muối, vải vóc, nông cụ… Từ đó, dọc theo con lũy, những phiên chợ nhỏ mọc lên bên suối, những tiếng cười hòa vào gió rừng, tạo nên “biên giới mềm”, nơi ranh giới được xóa nhòa bằng giao thương và bằng tình người.

Trò chuyện cùng tôi, nhà nghiên cứu Nguyễn Công Thành từng nói: “Trường Lũy vừa chắn vừa mở: chắn về quân sự, nhưng mở về thương mại; ngăn xung đột, nhưng mở đường giao lưu. Đó là biểu tượng sinh động cho sự hội nhập sớm giữa miền xuôi và miền ngược”. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang thì nhìn nhận: “Lũy không phải bức tường “khóa chặt” địa bàn miền núi với miền xuôi. Lũy cắt ngang qua nhiều con sông, suối và tại mỗi điểm cắt có đồn/bảo kiểm soát. Chính thiết kế này vừa ngăn quân nổi dậy tập trung tràn xuống, vừa mở lối cho giao thương hàng hóa (lâm thổ sản, muối, vải…) giữa người Việt dưới xuôi với đồng bào Hrê, Cadong, Xơ đăng… ở thượng du”.

Nhiều đoạn khai quật hiện ra dấu tích bếp lửa, tro than, mảnh sành, đồ sứ ngoại nhập… Đó như những chứng nhân thầm lặng của đời sống người xưa. Dưới lớp đất phủ rêu phong là hơi ấm bàn tay con người, là tiếng nói của những cuộc gặp gỡ, trao đổi đã từng diễn ra nơi biên viễn. Mỗi tàn tro, mảnh sành như kể lại câu chuyện về một thời giao thương, về những bước chân qua lại giữa miền xuôi và miền ngược, giữa đồng bằng và sơn cước.

Đánh thức di tích
Trải qua trăm năm mưa nắng, nhiều đoạn Trường Lũy bị sụp đổ, xói mòn, có nơi bị phá để mở đường, làm rẫy. Dọc đường thực địa, tôi nhìn thấy những nương mì, rừng keo phủ kín di tích xưa; dấu tích tường thành chỉ còn lấp ló dưới tầng cỏ hoang. Ở vài khúc núi, người dân đã từng vô tình lấy đá lũy về xây nhà, chẳng hề biết họ đang chạm tay vào một phần di sản của tổ tiên.

Nhiều hộ dân còn không biết họ đang canh tác ngay trên di tích Trường Lũy…

Tại Hội thảo khoa học về Trường Lũy tổ chức ở Quy Nhơn cuối tháng 8.2025, các nhà khoa học đã thống nhất nhìn nhận: Trường Lũy không chỉ là công trình quân sự, mà còn là một “di sản phức hợp” phản ánh quá trình đối thoại và dung hòa giữa các cộng đồng miền Trung – Tây Nguyên. Tiến sĩ Lê Đình Phụng khẳng định: “Với tư liệu di tích hiện thấy, cần xây dựng kế hoạch lựa trọn dấu tích tường thành, những khúc tiêu biểu đắp đá và đất liên hoàn nhau cùng dấu vết đồn bảo liên quan, xây dựng thành quần thể di tích liên hoàn độc đáo. Những giá trị để lại cho thấy nơi đây xứng đáng tôn vinh thành di tích lịch sử quốc gia. Đây là loại hình điển hình về quần thể di tích quân sự độc đáo riêng của Bình Định xưa trong lịch sử, cần được chú trọng, quan tâm bảo vệ phát huy giá trị của di tích trong đời sống văn hóa đương đại”. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang cũng thêm một lần nữa khẳng định những giá trị của Trường lũy, ông nói: Các nhà khoa học quốc tế và trong nước đánh giá cao về giá trị lịch sử, văn hóa của Trường Lũy. Cuối tháng 3.2011, đại sứ các nước Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, Italy cùng Phái đoàn Ủy ban Châu Âu (EU) đã đến thăm di tích Trường Lũy. Các đại sứ, nhà nghiên cứu văn hóa đều có nhận định chung: Đây là công trình kiến trúc hết sức độc đáo, một di sản quý báu không chỉ của Việt Nam mà là của cả nhân loại.

Đoàn khảo sát tại đồn Dông Hầm. Ảnh: Đ.L

Từ góc nhìn bảo tồn, các nhà nghiên cứu đề xuất: cần khoanh vùng, cắm mốc, kiểm kê, gia cố những đoạn lũy còn nguyên vẹn; đồng thời ngăn chặn các hành vi xâm hại do khai thác đất, mở rẫy, hay mở đường giao thông tự phát. Quan trọng hơn cả, là phát huy vai trò cộng đồng. Bởi, như một nhận định chung được nhấn mạnh nhiều lần tại hội thảo. Ấy là, không thể bảo tồn bằng hàng rào thép, mà phải bảo tồn bằng ý thức. Người dân sống quanh lũy chính là linh hồn của công trình này. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang bổ sung thêm một góc nhìn sinh động: “Những tour bộ hành dọc theo lũy, khám phá đồn cổ, tìm hiểu sinh hoạt cộng đồng miền núi… rất có sức hút với du khách ưa thích du lịch trải nghiệm. Bên cạnh ý nghĩa phòng thủ ngày xưa, Trường Lũy còn là ‘điểm đến’ gắn với văn hóa đa dạng, cảnh sắc hoang sơ của vùng rừng núi Bắc Gia Lai. Tuy nhiên, di tích đang đối diện nguy cơ xâm hại do sản xuất nông nghiệp, khai thác đất đá, mở đường. Vì vậy, cần lập kế hoạch bảo tồn khả thi, gắn trách nhiệm của cơ quan quản lý với lợi ích của người dân. Chính cộng đồng sống ven lũy có thể vừa hưởng lợi từ du lịch, vừa đóng vai trò bảo vệ di sản này”.

Những ngày đi thực địa, tôi nấn ná lại khá lâu bên những tường đá, chạm tay lên những phiến rêu phong, thấy lạnh mà như ấm. Có lẽ trong từng kẽ nứt của đá, trong lớp đất nâu đỏ bám dày năm tháng, vẫn còn vang vọng hơi thở của bao người từng qua: người lính triều Nguyễn canh biên, người H’rê gùi mật ong xuống chợ, người nông dân khai đất mở rẫy… Bao mùa mưa nắng, bao đổi thay thăng trầm đã trôi qua, mà bức tường vẫn nằm đó, như đường gân cổ xưa vẫn lặng lẽ thở cùng quê nhà.

ĐỨC LINH

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Như cây gỗ trắc giữa rừng Tây Nguyên

Trải những năm khó khăn gian khổ, cuộc đời công tác đã luyện nên Rơ Châm Toàn một tinh thần sắt đá, niềm tin vượt mọi gian nan, như cây gỗ trắc trong rừng Tây Nguyên…