(VNGL – Văn học nước ngoài).
“Chắc chắn cháu đọc xong rồi chứ?”.
“Dạ, vâng”, cô gái đáp, trên mặt thoáng một nụ cười, và giọng như nghẹn lại. “Vâng, cháu vừa định đi”.
Nhưng cô không đi. Thay vào đó, cô quay sang cuối góc khuất và ngồi xuống trước cái bàn đặt cạnh cửa sổ. Tựa khuỷu tay lên bàn, cô nhìn xung quanh, qua màn nước mắt nhòa mờ.
Nhìn qua chính đôi mắt trông ngóng của cô, dường như, mọi người mà cô thấy, đang đứng trước chồng báo hàng ngày đều rất đỗi nhớ nhà. Phòng đọc là một nơi kỳ diệu với cô, trong suốt những tuần cô tìm kiếm vô vọng công việc mình muốn làm, nó là niềm an ủi. Khi mệt mỏi, chán nản, buồn bã, cô luôn có việc có thể làm – cô có thể ghé thư viện và xem tờ báo quê nhà. Không phải cô cần tin tức thực sự của Denver. Cô không quan tâm lắm đến việc các quan chức thành phố đang làm gì, những tòa nhà nào đang mọc lên, hay ai đang rời thị trấn. Cô cũng hờ hững với những vụ cháy và án mạng. Cô chỉ muốn sự đồng hành an ủi của tờ báo quê hương mình.
Dường như, có nhiều người mà tờ báo này mang lại sự đồng cảm. Hơn bất cứ điều gì khác, nó đã mang lại cho họ – những người tìm kiếm, những kẻ phiêu bạt – một cảm giác được neo đậu. Cô sẽ không quên ngày cô bước vào đó và tình cờ tìm thấy tờ báo quê nhà. Chicago không cho cô gì ngoài sự cự tuyệt, và trong tuyệt vọng, chỉ vì phải đi đâu đó, không muốn quay lại nhà trọ, cô đã tìm đến thư viện thành phố. Đó là khi cô đang đi thơ thẩn trong phòng đọc lớn thì, cô chợt nghĩ, có lẽ cô có thể tìm thấy tờ báo quê mình. Và sau đó, khi mọi thứ tồi tệ nhất, khi cổ họng cô nghẹn lại và mắt mờ đi, cô luôn có thể tự an ủi mình bằng cách nói: “Lát nữa mình sẽ ghé ngang và xem tờ báo“.
Nhưng tối nay, với cô, cả điều ấy cũng hỏng nốt. Tối nay, nó không còn là tờ báo quê nhà; nó chỉ là một tờ báo đơn thuần. Nó không truyền cảm hứng cho niềm tin mọi thứ sẽ tốt hơn vào mai kia, mọi thứ rồi sẽ ổn thỏa sớm. Nó khiến cô trơ trọi – trĩu nặng với ý thức rằng, trong ví có mười một đô la, và đó là tất cả những gì cô có trên đời này.
Thật khó để kìm nước mắt, khi cô nghĩ, cô chẳng đòi hỏi gì nhiều từ Chicago. Cô chỉ mong một cơ hội để làm công việc mình được đào tạo, để cô có thể tham gia các lớp học nghệ thuật ban đêm. Cô đã đọc trên báo về thành phố trẻ năng động ở miền Trung Tây đó – trái tim của lục địa – về sức mạnh, trí tuệ và sự kiên cường của nó. Cô đã nghĩ rằng Chicago, hơn bất cứ đâu, sẽ đánh giá cao những gì cô muốn làm. Cái ngày cô rút một trăm đô la chắt chiu từ ngân hàng ở Denver – bầu trời thật trong xanh, và không khí thật sảng khoái! – cô đã hoàn toàn nghĩ, tương lai của mình được đảm bảo. Và giờ đây, sau khi nếm trải sự tàn nhẫn thờ ơ trong suốt ba tuần, cô nhìn lại những ảo vọng đó với nụ cười khắc khổ.
Cô đứng dậy để rời đi, và khi ấy, mắt cô hướng về người phụ nữ nhỏ bé mà cô đã nhường chỗ trước tờ báo Denver. Chìm đắm trong sự tuyệt vọng của chính mình, cô đã không để ý đến dáng người lướt đến cạnh mình, ngoài ý nghĩ trần trụi rằng bà ta trông thật kỳ quặc. Nhưng giờ đây, khi cô nhìn bà, có điều gì đó về người phụ nữ đã níu chân cô lại.
Đấy là một người nhỏ thó. Một chiếc khăn choàng lỗi thời được ghim chặt quanh vai, và bà đang đội một chiếc mũ nhỏ cũ kỹ. Tóc bà búi thành búi nhỏ phía sau đầu. Bà không trông có vẻ gì thuộc về Chicago. Khi cô đứng đó nhìn bà, cô thấy đôi vai gầy run lên, rồi sau một phút, cái đầu đang đội chiếc mũ cũ kỹ kia cúi gục xuống những nếp gấp của tờ báo Denver.
Mắt cô gái cũng ngấn lệ, cô vội quay đi. Dường như, cô không thể chịu được nỗi buồn của mình hôm ấy, nếu lại chứng kiến thêm nỗi đau của người khác. Nhưng khi cô đến cuối góc khuất, cô ngoảnh lại, và cảnh tượng bà cụ rách rưới, lưng còng, một mình trước tờ báo Denver, là điều không thể cầm lòng được.
“Cháu cũng đến từ Colorado”, cô nhẹ nhàng nói, đặt một bàn tay lên đôi vai gù.
Bà cụ ngẩng lên nhìn và nắm tay cô gái, bằng đôi tay gầy gò, run rẩy. Khuôn mặt xanh xao và khổ sở ngẩng lên, có điều gì đó trong đôi mắt dường như không phải chỉ do nước mắt để lại.
“Cháu có niềm thương dành cho những ngọn đồi không?”, bà thì thầm, với chút e dè nhưng háo hức. “Cháu có cảm giác, rằng cháu muốn nhìn mặt trời lặn sau đồi tối nay, và cháu muốn thấy bóng tối len lỏi trườn lên đến đỉnh không?”.
Cô gái hơi quay đi, nhưng cô siết chặt tay người phụ nữ trong tay mình. “Cháu biết ý bà là gì, cô lẩm bẩm.
“Bà muốn thấy điều đó quá rồi”, bà cụ tiếp tục, run rẩy, “đến nỗi, có cái gì đó cứ thúc đẩy bà đến đây, với tờ báo này. Bà biết nó ở đây, vì cháu trai của bà đưa bà đến đây một hôm nào và bà tình cờ thấy nó. Bà đã mua tờ báo này hơn hai mươi năm. Đó là lý do bà đến. Đó là nơi gần gũi nhất bà có thể đến”.
“Cháu biết ý bà là gì”, cô gái lại nói, lúng túng.
“Và đó là nơi gần gũi nhất bà có thể đến!”, người phụ nữ nức nở.
“Ôi, bà đừng nói thế”, cô gái gạt nước mắt của chính mình, và cố gắng mỉm cười; “Bà sẽ về nhà một ngày nào đó”.
Bà cụ lắc đầu. “Và nếu bà có về”, bà nói, “ngay cả khi bà có về, thì cũng sẽ quá muộn”.
“Nhưng không thể quá muộn được”, cô gái nhấn mạnh. ”Bà biết đấy, những ngọn đồi sẽ mãi ở đó”.
“Những ngọn đồi sẽ ở đó mãi”, bà cụ lặp lại, trầm ngâm; “vâng, nhưng không phải để bà nhìn thấy”. Một khoảng lặng. “Cháu thấy đó”, cụ bà nói một cách bình tĩnh, “bà sắp bị mù”.
Cô gái lùi lại, rồi giơ hai bàn tay. “Ôi, không, không đâu! Tại sao – các bác sĩ, bà biết đấy, giờ họ làm được mọi thứ”.
Người phụ nữ lắc đầu. “Đó là điều bà nghĩ khi bà đến đây. Đó là lý do bà đến. Nhưng hôm nay bà đã gặp bác sĩ giỏi nhất trong số họ – họ đều nói ông ấy là người giỏi nhất – và ông ấy nói thẳng là không làm được gì hơn. Ông ấy nói là – vô vọng”.
Giọng bà vỡ òa. “Cháu thấy đó”, bà vội vàng nói tiếp, «bà sẽ không quan tâm nhiều lắm, dường như bà sẽ không quan tâm gì cả, nếu bà có thể đến đó trước! Nếu bà có thể thấy mặt trời lặn sau những ngọn đồi chỉ một đêm thôi! Nếu bà có thể thấy những bóng đen trườn đến trên đỉnh đồi chỉ một lần thôi! Và sau đó, nếu chỉ một buổi sáng – chỉ một lần! – bà có thể thức dậy và thấy ánh nắng chiếu rọi – ôi, cháu biết nó trông như thế nào mà! Cháu biết bà muốn thấy điều gì!”.
“Vâng; nhưng tại sao bà không thể? Tại sao không? Bà sẽ không bị mù đâu – thị lực của bà sẽ kéo dài cho đến khi bà về nhà, phải không?”.
“Nhưng bà không thể về nhà; không phải bây giờ”.
“Tại sao không?”, cô gái hỏi. “Tại sao bà không thể về nhà?”.
“À, không có tiền, cháu gái yêu à”, bà giải thích, kiên nhẫn. ”Colorado là một nơi rất xa, và bà không có tiền. Bây giờ, George – anh rể bà – anh ấy đã kiếm tiền đưa bà đến đây; nhưng anh ấy không giàu, và việc bà đến đây đã làm anh ấy túng thiếu – anh ấy nói bà sẽ phải đợi cho đến khi anh ấy tiết kiệm được lại, và anh ấy không thể nói chính xác khi nào sẽ có. Anh ấy sẽ gửi ngay khi có thể”, bà vội nói thêm.
“Nhưng bà sẽ làm gì trong thời gian đó? Chi phí để đưa bà về nhà sẽ ít hơn là giữ bà ở đây”.
“Không, bà ở với cháu trai bà ở đây. Nó sẵn lòng để bà ở với nó cho đến khi bà có tiền để về nhà”.
“Vâng, nhưng cháu trai, anh ấy không thể kiếm tiền cho bà sao? Anh ấy không biết”, cô gái hỏi, bồn chồn, “điều đó có ý nghĩa gì với bà sao?”.
“Nó có năm đứa con, và không tiết kiệm được nhiều. Và nữa, nó chưa từng thấy những ngọn đồi ấy bao giờ. Nó không hiểu ý bà khi bà cố gắng kể cho nó nghe về việc đến đó kịp lúc. Tại sao, nó nói có nhiều người sống gần núi đồi còn muốn sống ở đây nữa. Cháu trai bà không hiểu”, bà nói thêm.
“Chà, ai đó phải hiểu chứ!”, cô gái thốt lên. ”Cháu hiểu! Nhưng…”, cô cố gắng cười… “mười một đô la là tất cả những gì cháu có trên đời!”.
“Đừng!”, bà lão van nài, khi cô gái dường như bật khóc. “Đừng bận tâm nữa. Bà không cố ý làm cháu buồn như vậy. Cháu trai bà nói bà thật vô lý, và có lẽ bà vô lý thật”.
Cô gái ngẩng đầu lên. “Nhưng điều bà mong hợp lý mà. Cháu nói với bà, bà rất hợp lý!”.
“Bà phải về thôi”, người phụ nữ nói, thoáng chút ngập ngừng. “Bà chỉ làm cháu buồn, và điều đó không ích gì. Và họ có thể lo lắng về bà. Emma – Emma là vợ cháu trai bà – đã để bà ở phòng mạch bác sĩ vì nó có việc phải làm, và nó sẽ quay lại đó đón bà”. Bà cười một cách héo hon – “đây là nơi xa nhất bà đi được”.
“Mời bà qua ngồi bàn này”, cô gái nói, “và kể cho cháu nghe một chút về quê nhà của bà nơi vùng đồi đi. Bà có muốn không?”.
Cụ bà gật đầu biết ơn. “Dường như bà được trở về, khi tìm thấy người biết về chúng”, bà nói, sau khi họ kéo ghế lại bàn và ngồi cạnh nhau.
Cô gái đặt bàn tay tròn trịa của mình lên bàn tay gầy gò, héo hon của bà. “Kể cho cháu nghe đi”, cô nói lần nữa.
“Có lẽ nó sẽ không thú vị lắm đối với cháu đâu, cháu yêu à. Cuộc đời bà chỉ là một cuộc sống bình thường thôi. Cháu thấy đấy, William và bà – William là chồng bà – chúng ta đã đến Georgetown trước khi nó thực sự là một thị trấn. Nhiều năm trước khi đường sắt đi qua, chúng ta đã ở đó. Cháu đã bao giờ ở đó chưa?”, bà hỏi một cách mong mỏi.
“Ồ, rất thường xuyên”, cô gái trả lời. ”Cháu yêu từng tấc đất nơi ấy!”.
Một giọt nước mắt lăn dài trên mặt người phụ nữ. “Dường như được về nhà, khi tìm thấy người biết về nó”, bà thì thầm.
“Ừm, William và bà đã đến đó khi nó còn là một vùng đất hoàn toàn mới”, bà nói tiếp, sau một khoảng lặng. ”Chúng ta đã làm việc chăm chỉ, và đã tiết kiệm được một ít tiền. Sau đó, ba năm trước, William bị bệnh. Ông ấy ốm một năm, và phải dùng hết phần lớn số tiền đã tiết kiệm. Đó là lý do tại sao bà không có đồng nào bây giờ. Không phải là William đã không lo liệu”.
Cô gái gật đầu.
“Chúng ta đã trải qua những ngày khó khăn. Nhưng William và bà luôn hòa thuận. Và William rất yêu những ngọn đồi. Đêm trước khi ông ấy mất, ông ấy bảo họ đưa ông ấy đến bên cửa sổ, và ông nhìn ra ngoài, xem bóng tối trườn lên đỉnh đồi – cháu biết nó xảy ra như thế nào ở những ngọn đồi đó. “Bà nó à”, ông ấy nói với bà – giọng ông ấy nhỏ đến mức bà chỉ có thể nghe được những gì ông ấy nói – “Anh sẽ không bao giờ thấy mặt trời lặn lần nữa, nhưng anh hàm ơn vì đã thấy lần này”.
Bà khóc nức nở, và cô gái không cố gắng ngăn bà lại.
“Và đó là lý do bà yêu những ngọn đồi”, bà thì thầm cuối cùng. “Không chỉ là chúng vĩ đại và tuyệt vời khi thưởng ngoạn. Không chỉ là thứ mà những khách du lịch thấy để nói về. Nhưng những ngọn đồi luôn giống như một người bạn an ủi đối với bà. John và Sarah được chôn cất ở đó – John và Sarah là hai đứa con của bà đã mất vì sốt. Và rồi William cũng ở đó – như bà vừa kể với cháu. Và những ngọn đồi là niềm an ủi đối với bà trong tất cả những lúc khó khăn. Chúng giống như một người bạn cũ. Dường như, là người bạn tốt nhất bà có trên đời”.
“Cháu biết ý bà là gì”, cô gái nói, nghẹn ngào. “Cháu biết tất cả về điều đó”.
“Và cháu không nghĩ bà chỉ là người đa cảm”, bà hỏi một cách mong mỏi, “khi khao khát được trở về – trong khi bà còn có thể nhìn thấy chúng?”.
Cô gái giữ chặt bàn tay già nua trong tay mình, siết chặt.
“Không phải là bà sẽ không biết chúng ở đó. Bà có thể cảm thấy chúng ở đó thôi, nhưng” – giọng bà chùng xuống với sự kinh hoàng của điều đó – “bà sợ rằng bà có thể quên mất chúng trông như thế nào!”.
“Ồ, nhưng bà sẽ không quên đâu”, cô gái trấn an bà. ”Bà sẽ nhớ chính xác chúng trông như thế nào”.
“Bà sợ điều đó. Bà sợ có điều gì đó bà sẽ quên. Và vì vậy, bà cứ tự dằn vặt mình suy nghĩ – Bây giờ mình có nhớ điều này không? Mình có thể thấy chính xác điều đó trông như thế nào không? Đó là cách bà bắt đầu suy nghĩ ở văn phòng bác sĩ, khi ông ấy nói với bà không có cách chữa trị, và bà buồn đến nỗi, dường như bà phải đứng dậy và rời đi ngay!”.
“Bà cố gắng đừng lo về điều đó”, cô gái lẩm bẩm. “Bà sẽ nhớ”.
“Chà, có lẽ vậy. Có lẽ bà sẽ nhớ. Nhưng đó là lý do bà muốn có thêm một lần nhìn nữa. Nếu bà có thể nhìn thêm một lần nữa, bà sẽ nhớ nó mãi mãi. Cháu thấy đó, bà sẽ nhìn để nhớ nó, và bà sẽ nhớ. Và cháu có biết không – gần như bà sẽ không bận tâm đến việc bị mù nhiều lắm sau đó? Khi bà ngồi đối diện với chúng, bà sẽ tự nhủ: ”Bây giờ mình biết chính xác chúng trông như thế nào. Mình đang nhìn thấy chúng cứ như thể mình có mắt!”. Bác sĩ nói thị lực của bà sẽ từ từ mất đi, và khi bà nhìn lần cuối, khi mọi thứ mờ dần đối với bà, bà muốn nhìn thấy những ngọn núi đó, nơi William và bà đã làm việc và rất hạnh phúc!
“Bà sẽ nhìn thấy chúng”, cô gái kiên quyết nói một cách say đắm. “Cháu không tin rằng thế giới có thể khủng khiếp đến mức đó!”.
“Chà, có lẽ vậy”, người phụ nữ nói, đứng dậy. “Nhưng bà không biết nó sẽ bắt đầu từ đâu”, bà nói thêm một cách hoài nghi.
Cô gái đưa bà trở lại văn phòng bác sĩ, và để bà lại cho cô Emma lầm lì. Cô hứa sẽ đến thăm bà và nói chuyện với bà về những ngọn đồi…

Và rồi cô quay lại thư viện. Cô không biết tại sao cô lại làm như vậy. Thực ra, cô hầu như không biết mình đang đi đến đó, cho đến khi thấy mình ngồi trước cái bàn mà cô và bà cụ vừa ngồi lúc trước. Cô ngồi đó rất lâu, nước mắt rơi xuống tập giấy màu vàng trên bàn trước mặt. Cuối cùng, cô lau khô mắt, mở ví, và đếm tiền. Dường như, từ mong muốn mới nảy sinh của cô, phải cần nhiều hơn số tiền cô nghĩ. Nhưng không có, cô khoanh tay trên hai tờ năm đô la và đồng một đô, nhìn quanh căn phòng một cách vô vọng.
Cô đã quên đi những thất vọng của chính mình, sự cô đơn của chính mình. Cô quên hết mọi thứ trên đời bây giờ, ngoại trừ điều dường như là tuyệt đối cần thiết: đưa người phụ nữ đó trở lại những ngọn đồi khi bà còn có thể nhìn thấy chúng.
Nhưng cô có thể làm gì? Cô lại đếm tiền. Cô có thể, bằng cách này hay cách khác, tự mình xoay sở mà không cần một trong hai tờ năm đô la, nhưng năm đô la sẽ không đưa ai đến gần những ngọn đồi. Chính vào lúc đó, cô thấy một người đàn ông đứng trước tờ báo Denver, và nhận ra một người đàn ông khác đang chờ tới lượt mình. Người đang đọc cầm một hộp cơm trưa trong tay. Quần áo của người kia cho thấy anh ta thuộc về lớp người cần lao. Rõ ràng, đối với cô gái, người đang xem tờ báo quê nhà; và người đàn ông sẵn sàng thay thế anh ta, trông như đang chờ đợi một thứ gì đó ít vô cảm hơn tin tức trong ngày.
Ý tưởng đến với cô một cách đột ngột. Họ – những người đến đọc báo Denver, những người yêu những ngọn đồi và đang ở xa chúng, những người cũng đang nhớ nhà và đầy khao khát – là những người sẽ hiểu chuyện này.
Cô chỉ mất một phút để hành động. Cô đặt đồng đô la và một tờ năm đô la trở lại ví. Cô nắm chặt tờ tiền còn lại trong tay trái, nhặt một cây bút chì, và bắt đầu viết. Cô đặt tiêu đề lá thư thỉnh cầu: ”Gửi tất cả những ai biết và yêu những ngọn đồi”, và cô kể câu chuyện bằng sự giản dị của một người nói tự đáy lòng. “Và vì vậy, cháu tìm thấy bà ấy ở đây bên tờ báo Denver”, cô nói, sau khi cô đã trình bày những sự thật cảm động, “vì đó là nơi bà ấy có thể đến với những ngọn đồi. Trái tim bà ấy không vỡ tan vì sắp bị mù. Nó tan vỡ vì bà ấy có thể không bao giờ được nhìn thấy bằng đôi mắt của mình những ngọn đồi vĩ đại mọc lên quanh nhà bà ấy nữa. Chúng ta phải làm điều đó cho bà, đơn giản vì chúng ta sẽ mong muốn rằng, trong hoàn cảnh tương tự, ai đó sẽ làm điều đó cho chúng ta. Bà ấy thuộc về chúng ta, vì chúng ta có thể sẻ chia”.
“Nếu bạn chỉ có thể cho năm mươi xu, xin đừng giữ lại vì nó cũng chẳng đáng là bao. Năm mươi xu sẽ đưa bà ấy đến gần nhà hơn hai mươi dặm – gần hơn hai mươi dặm với những thứ mà bà ấy khao khát cái nhìn thấy lần cuối”.
Sau khi viết xong, cô đứng dậy, cầm tờ năm đô la trong tay, các tờ giấy vàng trong tay kia, đi dọc căn phòng dài đến bàn thủ thư đang ngồi. Má cô gái đỏ hồng, mắt cô lấp lánh khi kể lại câu chuyện. Họ hòa nước mắt, vì cô gái ở bàn thủ thư cũng còn trẻ và xa nhà, rồi sau đó, họ quay lại tờ báo Denver và ghim các tờ giấy vàng ngay phía trên chồng báo. Ở cuối lá thư thỉnh cầu, cô thủ thư viết: “Để tiền của bạn tại bàn ở phòng này. Nó sẽ được sử dụng một cách chính đáng”. Sau đó cô gái từ Colorado giao tờ năm đô la của mình và bước ra ngoài khi màn đêm đang kéo đến.
Trái tim cô tràn ngập niềm vui. “Mình có thể tìm một chỗ trọ rẻ hơn”, cô tự nhủ, khi cô hòa vào đám đông về nhà, ”và cho đến khi có việc khác, mình sẽ cứ tìm xung quanh xem có thể kiếm được một chỗ làm trong cửa hàng nào không”.
***
Từng người một đã tụ lại trong khi cụ bà đang kể câu chuyện. “Và vì vậy, nếu anh không phiền, tôi muốn nhờ anh đăng một mẩu tin nhỏ rằng tôi đã đến Denver an toàn, để họ có thể biết. Họ đều rất lo lắng về việc khi nào tôi sẽ đến. Điều đó có tốn nhiều tiền không?”, bà hỏi một cách rụt rè.
“Không tốn một xu nào”, người lo việc đưa tin của thành phố nói, giọng anh khàn lại vì cố giữ cho nó ổn định.
“Anh có thể nói, nếu không chiếm quá nhiều chỗ, rằng tôi rất vui với viễn cảnh được về nhà trước khi mặt trời lặn tối nay”.
“Bà không cần lo lắng về việc đó”, anh trấn an bà. “Chúng tôi sẽ nói nhiều hơn những gì bà có thể tưởng tượng”.
“Tôi rất cảm ơn anh”, bà nói, khi bà đứng dậy để rời đi.
Họ ngồi đó một lúc trong im lặng. “Khi người ta nhận ra”, ai đó bắt đầu, “rằng họ là những người túng quẫn đến mức không thể đăng ký mua một tờ báo hàng ngày…”.
“Khi người ta nhận ra”, người phụ trách đưa tin nói, “rằng cô gái bắt đầu chuyện đó chỉ có mười một đô la trong túi…”. Và rồi anh ta cũng dừng lại đột ngột, một khoảnh khắc im lặng dài.
Sau đó anh ta nhìn quanh các phóng viên. “Chà, thật tệ là các cậu không thể có được tin này, tôi đoán chừng nó thuộc về cậu Raymond một cách phù hợp. Và khi viết nó, hãy nhớ, Raymond này, những câu chuyện vĩ đại nhất không viết về chiến tranh, hay về chính trị, hay các vụ án mạng. Những câu chuyện vĩ đại nhất viết về những điều đưa con người lại gần nhau hơn. Và cơ hội để viết chúng không đến mỗi ngày, mỗi năm, hay mỗi đời người. Tôi nói với các cậu, tất cả các cậu, lúc nào ấy, khi dường như lòng nhân ái đã hoàn toàn biến chất, hãy cứ nghĩ lại câu chuyện nhỏ các cậu vừa nghe chiều nay”.
***
Mặt trời từ từ lặn xuống sau những ngọn đồi, bóng tối trải dài màu tím rồi đậm lại thành đen, sự bình yên mãn nguyện, thanh thản đã bao trùm lên những ngọn đồi vĩnh cửu, và lên tâm hồn của một người đã trở về với chúng.
Susan Keating Glaspell (1876 – 1948) là nhà văn, nhà báo, kịch tác gia và là diễn viên người Mỹ. Sáng tác của bà bắt đầu với những truyện ngắn rồi mở rộng sang thể loại tiểu thuyết và kịch.
Truyện của Glaspell thường lấy quê hương miền Trung Tây Hoa Kỳ làm bối cảnh, khám phá các vấn đề xã hội đương thời, như giới tính, đạo đức, những nỗi bất công… Qua đó, khắc họa những phận người đáng cảm thông từ cái nhìn nhân hậu, bao dung. Năm 1931, bà đoạt Giải thưởng Pulitzer lĩnh vực Kịch (vở Alison’s House).
SUSAN GLASPELL (Mỹ)
LÊ MINH KHA dịch
(For Love of the Hills)


