Ánh sáng & Hương thơm

(VNGL – Tiểu thuyết). “Ánh sáng & Hương thơm” là một cuốn tiểu thuyết kỳ lạ. Nó như một chiếc cầu mong manh bắc qua miền ký ức về xứ Gò Bồi xinh đẹp, nối với cuộc chiến tàn khốc hai mươi năm chia đôi đất nước, rồi tiếp sang năm mươi năm hậu chiến của “mặt trận không có đạn bom” – không kém phần khốc liệt – để con người tìm thấy nhau trong hiện tại và cùng nhau vươn tới một tương lai kỳ ảo của tri thức và nhân văn.

Ở góc độ khác, “Ánh sáng & Hương thơm” là câu chuyện về một cuộc tình bị chia cắt và hành trình suốt sáu mươi năm đi tìm bóng dáng người yêu. Tác phẩm không chỉ tái hiện một giai đoạn lịch sử mà còn mở ra hướng tiếp cận mới của Văn học hiện đại – nơi tình yêu và nhân tính được soi chiếu qua ánh sáng của trí tuệ nhân tạo – như một thông điệp về sự thiện lương vĩnh cửu trong con người.

Lệ Thu là một tác giả đặc biệt – một cây bút thanh khiết, dù nhìn dòng chảy lịch sử ở bất cứ góc độ nào. Bà tự nhận mình là một chứng nhân may mắn, được đắm mình trong dòng chảy ấy để trực tiếp cảm nhận vẻ đẹp của quê hương, của tri thức, của tình yêu con người – ngay giữa những tháng ngày đất nước đau đớn vật vã trong bom đạn và ly tán, lầm than trong định kiến và tha hóa. Máu, nước mắt, mồ hôi và trí tuệ giao hoà, tất cả vẫn dựa trên lòng tin chung thủy vào cái đẹp – để một ngày thăng hoa thành ánh sáng và hương thơm.

Được tác giả cho phép, Tạp chí Văn nghệ Gia Lai số đầu tiên xin trích giới thiệu cùng bạn đọc Chương 3 trong cuốn tiểu thuyết sắp xuất bản này.

Nhà thơ Lệ Thu
Tác giả Lệ Thu. Ảnh: NVCC

CHƯƠNG 3

Cơn gió lạ ở làng quê những ngày “tập kết” trôi qua rồi. Con tàu đã rẽ sóng mang Phương và bao bạn bè nhỏ tuổi đi về một chân trời xa lạ. Bờ biển Quy Nhơn lặng lại, chỉ còn gió rít, cát trắng, và một vầng trăng loang loáng trên mặt nước. Minh đứng từ xa, nhìn về phía con tàu đã khuất hẳn vào mịt mùng, trong lòng vừa ngỡ ngàng, vừa hẫng hụt. Gò Bồi sau ngày tập kết bỗng trở nên trống trải. Những mái nhà xưa vốn rộn rã tiếng trẻ nô đùa, giờ nhiều cửa đóng then cài. Hàng tre đầu xóm, bờ sông Thị Nại, cây me giữa sân trường… tất cả như phủ thêm một lớp sương buồn. Những người thân quen bỗng dưng biến mất. Ai cũng biết họ đã “đi ra Bắc”. Còn lại là khoảng trống mênh mông, là những ánh mắt ngơ ngác và những tiếng thì thầm lo lắng của người ở lại.

***

Rồi một ngày, xe nhà binh kéo về. Những người lính đội mũ sắt, súng đeo vai, nói giọng lạ. Người ta bảo đó là “chính quyền Quốc gia” tiếp quản vùng tập kết. Nhịp sống trong làng bỗng khác hẳn. Bọn trẻ thôi chạy nhảy vô tư; người lớn nhìn nhau dè chừng, giọng nói nhỏ lại. Nhà nào có người đi tập kết đều bị dòm ngó. Đêm đêm, tiếng giày lính đập rầm rập ngoài ngõ, tiếng chó sủa vọng khắp xóm, tiếng gõ cửa dồn dập làm nhiều bà mẹ ôm con run cầm cập.  Minh thấy quê hương bỗng hóa xa lạ. Cậu đi học, nhưng thầy cũ đã không còn. Người mới về giọng vùng khác, ánh mắt dò xét. Trường làng vắng học trò, cành me trước sân vẫn lay động, mà chỗ Phương ngồi đã trống. Trống trường gõ vẫn vang, nhưng âm thanh nghe như tiếng thở dài. Đêm đến, nằm trên chõng tre, Minh nghe sóng Thị Nại vỗ bờ. Tiếng sóng năm nào từng ru giấc ngủ giờ trở thành tiếng vọng cô đơn, khắc khoải.

***

Ở đầu xóm, nhà Phương, vốn là nhà nề nếp, có tiếng học hành, nay bỗng thành “chỗ bị nghi ngờ”. Ba Phương đi tập kết, để lại đàn con bốn đứa lít nhít, có đứa mới sinh chưa đầy hai tháng. Một sáng, ấp trưởng đến nạt nộ bảo má Phương “trả nợ cho chính quyền 25 vuông lúa thơm”. Má Phương kinh hoàng hỏi lại: nợ gì? Tui vay ai hồi nào mà “trả nợ”? – Nợ này không phải do bà vay, mà do chồng bà dạy học, hưởng lương bằng lúa. Lúa ấy giờ phải trả lại cho chính phủ Việt Nam cộng hòa để trả lương cho cán bộ mới! – Vô lý – Má Phương cãi gay gắt – mấy năm ổng dạy học, không lấy xu nào của bà con. Nhà nước Việt Minh trả lương mỗi tháng có 15 ký lúa, chưa đủ ông ăn lúc đó, giờ “đòi”, tui lấy đâu ra mà trả cho các ông? – Chuyện đấy tụi tui hổng cần biết. Lệnh trên truyền vậy, bà không trả, đi tù ráng chịu. – Má lặng lẽ đi vay mượn, rồi gồng gánh từ ngày này qua ngày khác, từng bao, từng thúng lúa nặng trĩu lên trụ sở xã. Vai gầy run rẩy, bàn chân lấm lem, bước đi nặng như giẫm lên tim. Minh đi học về, nhìn thấy cảnh ấy mà nghẹn ngào. Đêm đêm bà cùng mấy người đàn bà khác phải ra trường làng “ngủ tập trung”. Chiếu manh trải trên nền đất lạnh, mưa gió rít qua khe vách, tiếng thở dài và tiếng trẻ con khóc lẫn trong bóng tối. Ánh lửa từ sân đình hắt ra lay động, tiếng sóng biển ngoài xa nghe như tiếng khóc. Một lần, Minh chứng kiến chú Bảy – người hiền lành, từng nuôi giấu cán bộ – bị lính trói giật cánh khuỷu. Cả xóm chỉ biết đứng lặng nhìn, không ai dám thốt một lời. Đêm ấy, tiếng khóc kìm nén của vợ chú vọng ra, nhói buốt.

Minh họa: Nguyễn Chơn Hiền

Càng ngày, đám chức sắc trong làng càng bày ra nhiều hình thức tra tấn dã man, nhiều trò bỉ ổi đê tiện để hành hạ cha mẹ, vợ con của người tập kết. Sân đình là nơi luôn diễn ra trò “tố cộng”. Hôm đó loa tay vang vang gọi dân làng đến họp, không ai được vắng mặt. Minh đến đứng ngoài xa, thấy chúng dựng một hình nộm bằng rơm to tướng đầu đội cái nồi rang đen sì, đứng giữa sân. Tiếng loa gọi xấc xược: Con Lê Thị ở xóm 2 đâu, ra ngay. Má Phương, dáng nhỏ nhắn, gầy yếu bước ra. Một thằng cười khả ố, cầm cây thước dài, gõ gõ vào hình nộm hỏi: – Lê Thị, đây có phải thằng chồng mày, mới đi tập kết ra miền Bắc không? Nói mau. Má Phương giọng tỉnh khô nhưng đầy khinh bỉ, trả lời: – Đây là cái hình nộm bằng rơm, để đuổi lũ chim láo xược hay trộm cướp ngoài đồng. Chúng xúm cười ha ha, nhăn nhở. Xong lại gõ vào cái “đầu” bằng nồi rang kia hỏi: – Đây là cái gì? Má Phương bảo: cái nồi rang. Nhưng các ông bảo đó là đầu của các ông, thì nó là cái đầu. Cây thước lại chỉ xuống dưới, gõ gõ vào lọn rơm dài chìa ra dưới bụng: – Còn đây là cái gì? Chúng định làm Má Phương xấu hổ để cười chơi. Nhưng má Phương nghiêm mặt, đầy căm phẫn, trả lời: – Đó là cái bó rơm của thằng cha chúng mày đẻ ra một lũ đê tiện. Hôm đó chúng không dám bắt hay đánh đập bà, vì có một người mang kính râm rất lịch sự, đẹp trai và đầy quyền lực, vừa mới đến, ngăn lại: Thôi, dẹp trò này đi. Bọn bay bậy bạ quá, cô ấy chửi là đúng rồi. Má Phương trong bụng đã biết tỏng âm mưu của chúng rồi, nên không hề cảm động hay biết ơn cái người “bảo vệ” mình kia. Bà biết thế nào rồi cũng “có chuyện”! Ngay tối đó, một người đàn ông bảnh bao chừng trên dưới bốn mươi tuổi – đó là người sáng nay đã bênh vực bà – trong dáng vẻ phong độ, ăn nói lễ phép dịu dàng đến nhà má Phương “xin lỗi“. Và cùng lúc để ra khay một cọc tiền mệnh giá lớn, nói nhẹ nhàng: – Cô Ba à, tui thấy hoàn cảnh cô cơ cực quá. Một người đẹp và đức hạnh như cô, đáng ra phải được sống trong hạnh phúc, giàu sang… chứ không phải để bị đày đọa thế này. Tôi cảm phục và thương cô, nên giúp cô số tiền này để làm vốn buôn bán nuôi con thôi, không có ý gì đâu. Bao giờ cô kiếm đủ tiền thì trả lại, mà không có thì cũng không sao. Má của Phương năm ấy 33 tuổi, đã 8 lần sinh con, nhưng gương mặt và đôi mắt vẫn đẹp như Đức mẹ đồng trinh. Bà nhẹ nhàng nói: – Tôi thật cảm ơn ông. Nhưng số tiền này tôi không thể nào nhận, vì tôi biết đời một người đàn bà khi đã nợ ai cái gì thì phải trả bằng chính cái gì giá trị nhất của mình. Tôi không còn gì cả, chỉ còn có danh dự và lòng tự trọng thôi. Cái này không tương xứng với số tiền của ông. Nên ông mang về đi. Tôi phải đi cho con ăn đã. Chào ông. Người đàn ông cầm lại bọc tiền, miễn cưỡng đứng dậy, bước ra cửa. Bà đóng sập cánh cửa lại, cài chốt thật chặt. Lời nói nhẹ như không vậy, nhưng trong lòng bà, lúc nãy chỉ muốn tát cả ly nước vào mặt hắn. Bởi bà biết đó là tên “phượng hoàng” do chính quyền Ngụy đẻ ra để phá hoại danh tiết của những người phụ nữ là vợ cán bộ tập kết. Nếu một tên ve vãn chinh phục được một người “ly dị” chồng tập kết để lấy chồng khác, hoặc bồ bịch hoặc sinh con với một người đàn ông trong đội “phượng hoàng” ấy thì coi như chúng thực hiện được một “bàn thắng“ – làm ly gián cơ sở cách mạng và cán bộ hoạt động bí mật. Và tên Phượng Hoàng – sở khanh ấy sẽ kiếm được một phần thưởng rất béo bở từ chính quyền, còn người phụ nữ kia sẽ không chỉ bị ô nhục mà còn mang mối hận tình cay đắng. Trước tình cảnh quê hương đầy bóng tối, những khắc nghiệt, hận thù… dồn dập bao quanh, Minh hiểu rằng tuổi thơ đã mất.  Nhưng ngày tháng ấy, làng quê Minh như khoác lên chiếc áo khác, u ám, nghi hoặc, đầy sợ hãi. “Hàng rào Ấp Chiến Lược” mọc lên như những con quái vật, vây quanh xóm làng. Tiếng loa tay, tiếng giày đinh, tiếng người gọi nhau nộp thóc, nộp giấy tờ, gọi thanh niên nhập ngũ… ngày nào cũng xóc xoáy vào tim Minh như những mũi tên. Bao nhiêu lần, Minh thấy má Phương lom khom gánh lúa đi qua xóm, lũ lính đứng bên cười. Minh nắm chặt tay, móng tay bấm đến bật máu. Đêm xuống, nghe tiếng mõ gọi phụ nữ ra “ngủ tập trung”, cậu thấy lòng se thắt. Dưới ánh trăng, những bóng dáng đàn bà gồng gánh đi thành hàng dài, lầm lũi như đàn cò bị lùa. Sóng Thị Nại vỗ vào bờ, vốn êm đềm, giờ như lời than của đất trời. Cậu nhớ Phương đến quay quắt. “Phương có biết quê mình giờ thế này không? Có biết má cô ấy đang khổ ra sao không?”. Minh tự hỏi, rồi nước mắt cứ chảy.

***

Trong giấc mơ, Minh thấy Phương đứng trên boong tàu, ngoái lại vẫy tay. Biển mênh mông, nụ cười ấy dần mờ khuất. Cậu gọi mãi, đến khản giọng. Tỉnh dậy, chỉ còn tiếng tim mình đập thình thịch trong đêm. Từ đó, Minh sống khác hẳn. Cậu ít nói, thích ngồi một mình bên sông, nhìn ánh trăng soi xuống bãi cát. Cậu biết tuổi thơ đã qua, nhưng ký ức ấy phải giữ, để một ngày nào đó kể lại cho Phương nghe. Thỉnh thoảng, Minh đến nhà Phương. Cánh cổng quen giờ lạnh lẽo. Má Phương nhìn cậu bằng ánh mắt vừa thương vừa lo. Minh hiểu, ngay cả ký ức về Phương, cậu cũng phải giữ kín. Đêm đêm, Minh mở cuốn vở học trò, viết những dòng thơ vụng dại: Em đi về phía chân trời / Ta ngồi bên bờ sông vắng/ Con nước chảy hoài, chảy mãi/ Có đưa về chút bóng hình em… Rồi gấp lại, giấu dưới gối.

Và vẫn như mọi đêm, tiếng sóng biển Quy Nhơn vọng về, mang theo hương gió từ phương xa, nơi có người con gái mà Minh tin chắc rằng: dù bao năm trôi qua, cô vẫn sẽ không quên thời thơ ấu đầy kỷ niệm êm đềm mà giờ lòng cậu đang khắc khoải giữ gìn.

Con sông Côn vẫn chảy, bãi tre vẫn rì rào, nhưng lòng Minh như trống hoác. Dáng Phương lội xuống mé nước hôm chia tay in hằn mãi. Minh lớn nhanh trong lặng lẽ, bắt đầu đọc nhiều hơn, nghĩ nhiều hơn về thân phận, về đất nước, về con đường mình phải đi…

LỆ THU

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Hai hạt đậu trong lòng đất

Tôi không nhận ra ba đã già, cho đến mùa xuân năm rồi trở về từ thành phố, ba đến đón tôi. Và tôi ngồi sau xe, chợt thấy những sợi tóc bạc lòe xòe ẩn hiện sau chiếc mũ sờn…

Ngày không online

Bây giờ con người cô đơn. Cô đơn ngay giữa đám đông. Ngồi sát bên nhau mỗi người một cái điện thoại lướt zalo, viber, facebook, xem những hình ảnh lạ…

Cuối chiều

Nếu mặt đất đầy nỗi buồn màu xanh
hãy quên đi những gấp khúc trên đường xa thẳm
như chẳng có bao giờ tồn tại
một mảnh đời
va chạm những giấc mơ đổ vỡ

Bầu trời vừa khép

Xin đừng phơi nữa giấc mơ
con đường nào cũng chảy phía đơn chiếc
em khép mắt
như một cú delete
xóa sạch mọi khởi đầu của chúng ta