Từ làng quê đến tầng sinh quyển thi ca qua tập thơ “Miên man khúc làng” của Nguyễn Tiến Lập

(VNGL – Nghiên cứu phê bình). Từ đầu thế kỷ XXI, phê bình sinh thái và nghiên cứu văn hóa học đã mở ra hướng tiếp cận mới cho việc đọc hiểu văn học, xem văn bản như một phần của tầng sinh quyển văn hóa, nơi con người, tự nhiên và lịch sử cùng cộng sinh trong mối quan hệ biện chứng. Ở Việt Nam, nhiều học giả như Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Văn Dân, Trần Đình Sử… đã nhấn mạnh rằng văn học dân tộc là “biểu hiện của bản sắc văn hóa Việt trong môi trường sống cụ thể”.

Từ góc nhìn đó, tập thơ Miên man khúc làng của Nguyễn Tiến Lập có thể xem như một tầng sinh quyển thi ca đặc thù. Thơ ông không chỉ là tiếng nói của cái tôi trữ tình, mà là dòng năng lượng văn hóa Việt được kết tinh qua hình ảnh làng quê, thiên nhiên, lịch sử và triết lý nhân sinh. Mỗi bài thơ trong tập thơ này như một “mảnh đất sống”, nơi văn hóa dân gian, đạo lý truyền thống và suy tư hiện đại giao thoa, phản ánh cách nhà thơ cảm/ nghĩ/ sống cùng dân tộc mình.

1. Làng, hạt nhân của tầng sinh quyển văn hóa Việt
Trong thơ Nguyễn Tiến Lập, “làng” không chỉ là không gian địa lý, mà là một hệ quy chiếu tinh thần, xuyên suốt thế giới nghệ thuật của ông. Từ “làng”, nhà thơ dựng nên một “tầng sinh quyển Việt” nơi con người, thiên nhiên và đạo lý hòa vào vòng sinh thái của sự sống. “Bạn đồng niên vắng hẳn mấy người/ Những tên xóm, tên làng heo hút tủi hờn xưa chỉ còn trong nỗi nhớ…” (Về quê). Câu thơ không chỉ gợi nỗi buồn hoài cổ, mà còn là một sự tự vấn hiện sinh: Trong vòng xoáy thời gian, điều gì còn lại giữa con người và quê hương? Sự vắng lặng của làng là sự lặng im của ký ức văn hóa, nơi con người tìm lại chính mình trong những phai nhạt của thời gian. Nhà thơ tự vấn rồi giãi bày nỗi lòng mình: “Với quê hương tôi mãi người mắc nợ/ Dẫu có là vua cũng chẳng thể nào trả hết ơn quê” (Về quê). Cảm thức “mắc nợ” ấy chính là triết lý nhân sinh đậm chất Việt: Con người xem sự trưởng thành của mình là kết quả cộng sinh giữa bản thân và đất mẹ. Khi ông viết “đất quê mình/ máu, mồ hôi thấm sâu từng hạt/ nắng, gió Lào bỏng rát áo nàng Bân/ nước mắt Mẹ xanh luống khoai, ngọn lúa/ mỗi hạt đất quê/ một giọt máu cha ông” (Đất quê). Những câu thơ mộc mạc mà thẳm sâu ấy như chạm đến linh hồn của đất. Trong từng hạt đất có hơi người, trong giọt mồ hôi có ký ức cha ông, tất cả hòa vào nhau thành một vòng sinh thái của tình thương và lao động. Ở đó, đất không chỉ là nơi sinh tồn, mà còn là mạch máu của ký ức, là nơi con người gửi lại niềm tin, nỗi nhọc nhằn và cả tình yêu bền bỉ với quê hương.

Ở Nguyễn Tiến Lập, làng vừa là ký ức, vừa là nền tảng đạo lý, vừa là nơi trú ngụ tinh thần khi con người mỏi mệt giữa thế giới đô thị: “Làng với ta mỗi ngày từng khoảnh khắc/ Vẽ lại hoa văn xóa sắc nhọn những mảnh đời” (Cảm thức làng). Làng trở thành biểu tượng của sự nhân hậu, nơi văn hóa làm dịu đi những “sắc nhọn” của cuộc sống. Nó thể hiện niềm tin của ông vào sức mạnh nhân hóa của văn hóa làng: Trong không gian ấy, con người trở nên hiền hậu hơn, chậm rãi hơn, nhân ái hơn.

Từ cảm hứng đó, Nguyễn Tiến Lập đã khắc họa hình ảnh làng quê qua những câu thơ giàu nhạc tính và triết lý: “áp ngực chiều tìm lại ngày xanh/ núi dang tay ôm trọn đời ngô lúa/ nương rẫy xanh tới đâu làng vươn ra tới đó/ những nếp sàn cụm lại thành quê” (Tình làng). Bốn câu thơ mở ra một bức tranh hiền hòa mà thấm đẫm đạo lý Việt. Ở đó, lao động không chỉ là sinh kế, mà là một cách sống một thứ ngôn ngữ của tình thương và trách nhiệm. Âm thanh của núi rừng, tiếng chuyển mùa của nương rẫy hòa vào nhịp tay con người, tạo thành bản giao hưởng của sự gắn bó giữa người và đất. Hình ảnh “những nếp sàn cụm lại thành quê” không chỉ miêu tả không gian sinh hoạt, mà còn ẩn chứa triết lý cộng sinh và tính cố kết cộng đồng nơi mỗi con người đều là một phần trong hơi thở của làng. Chính từ đó tỏa ra năng lượng mềm của tầng sinh quyển văn hóa làng Việt, thứ năng lượng nuôi dưỡng nhân cách, hình thành ý thức cộng đồng và lưu giữ nếp sống thuận theo tự nhiên qua bao thế hệ.

Từ góc nhìn văn hóa học, “làng” là mã di truyền của bản sắc Việt. Tác giả ý thức sâu sắc điều đó khi khẳng định: “đất bậc thang buộc phải chung thủy với cái cày/ chị vẫn chảy máu cam giữa trưa hè say nắng/ vẫn cầm cập lội bùn chân buốt cóng/ dáng Mẹ liêu xiêu tím tái hoàng hôn” (Về quê). Những câu thơ như một lát cắt của đời sống quê, nơi đất và người cùng mang trong mình vết thương của thời gian nhưng vẫn bền bỉ mà nhân hậu. Dáng Mẹ liêu xiêu không chỉ là hình ảnh của nhọc nhằn, mà còn là biểu tượng của sức sống, của niềm tin thầm lặng nối dài qua bao thế hệ. Trong cái khắc nghiệt của nắng gió, con người vẫn giữ lấy mối giao cảm bền chặt với đất, để từ đó hình thành nên một hệ giá trị văn hóa sâu xa, nền tảng cho mọi biểu hiện thi ca và tư tưởng của ông.

Với Miên man khúc làng, “làng” vừa là không gian vật thể, vừa là sinh quyển tinh thần, vừa là biểu tượng bản sắc dân tộc. Nguyễn Tiến Lập đã tái thiết lại hình ảnh làng quê Việt trong thơ hiện đại, không chỉ như một hoài niệm, mà như một mô hình sinh thái văn hóa sống động, nơi quá khứ và hiện tại, con người và thiên nhiên, đạo lý và tri thức cùng tồn tại hài hòa.

“Làng” trong thơ ông vì thế không khép kín, mà mở ra vô biên ký ức và yêu thương, đúng như tên tập thơ Miên man khúc làng, ấy là dòng chảy bất tận của sự sống văn hóa Việt.

2. Sự cộng sinh giữa con người, thiên nhiên và lịch sử
Nếu “làng” là hạt nhân của tầng sinh quyển văn hóa Việt, thì thiên nhiên và lịch sử chính là hai môi trường bao bọc, nơi con người Việt sinh tồn, chiến đấu và lưu giữ linh hồn dân tộc.

Trong thơ Nguyễn Tiến Lập, thiên nhiên là chủ thể đồng hành cùng con người. “Cây, đất, gió, sông, biển” đều có linh hồn, có tiếng nói, có cảm xúc: “trên nẻo đường dọc tuổi ấu thơ/ gặp hồn cốt làng treo cành đa cổ tích đêm rổn rảng tiếng gàu khua mặt nước/ vỡ mảnh trăng cong lấp lánh ao làng/ gặp những nếp sàn bạc thếch thời gian/ rong rêu bợt màu son trẻ/ tiếng ve hát vẹt chiều nắng hạ/ nghĩa tình làng vẫn thế… ngàn năm” (Tình làng). Những câu thơ ấy mở ra một không gian văn hóa thẳm sâu và sống động, nơi mọi cảnh vật đều mang hơi thở của ký ức. Cái “hồn cốt làng” treo trên cành đa, ánh “mảnh trăng cong lấp lánh ao làng”, hay “tiếng ve hát vẹt chiều nắng hạ” tất cả như chuyển động cùng ký ức con người, như thể thiên nhiên đang nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của quê hương. Ở đó, thiên nhiên trở thành thực thể hữu linh, mang hơi thở của cha ông, lưu giữ dấu ấn lao động và sáng tạo của bao thế hệ. Cấu trúc hình tượng đất – người – ký ức kết nối thành một vòng sinh thái văn hóa khép kín, thể hiện rõ tư tưởng cộng sinh: con người thuộc về thiên nhiên, và thiên nhiên cũng thuộc về con người.

Với Nguyễn Tiến Lập, thiên nhiên là nhân chứng văn hóa, là tấm gương phản chiếu lịch sử tinh thần của dân tộc. Qua thiên nhiên, ông nói về con người; qua những âm thanh, màu sắc của làng quê, ông gửi gắm một niềm tin lặng lẽ vào sức sống bền bỉ của văn hóa Việt.
Giữa những khoảng cách của thời gian và không gian, tiếng gọi của quê hương vẫn ngân lên da diết. Nguyễn Tiến Lập viết trong Mưa đầu mùa: “Lớn lên bỏ bạn, bỏ làng tôi tháng ngày viễn xứ/ Bỏ lại hun hút sau lưng những trận mưa rào/ Thèm một trọt nước trước hiên nhà/ Khát tiếng “cuốc”, bờ ao/ Khát những đêm đội mưa, đuốc rơm soi ếch/ Khát một lũy tre, một bóng đa, giếng nước/ Khát một đồng làng sũng nước đêm mưa”. Ở đây, nỗi nhớ làng được chuyển hóa thành một triết lý sống, nơi thiên nhiên không chỉ là cảnh vật mà còn là phần máu thịt trong ký ức con người. Mỗi hình ảnh “tiếng cuốc bờ ao”, “đuốc rơm soi ếch”, “lũy tre”, “bóng đa” đều như chạm vào miền ký ức, nơi quê hương hiện ra không bằng dáng hình địa lý mà bằng hương vị tinh thần.

Cơn “khát” trong thơ không chỉ là nỗi khát mưa hay khát làng, mà còn là khát vọng trở về với bản nguyên của mình, nơi con người được soi chiếu trong sự trong lành của thiên nhiên và tình làng nghĩa xóm. Chính trong mạch cảm xúc ấy, tác giả đã tạo nên một “tầng sinh quyển cảm xúc”, nơi quê hương trở thành không gian đạo lý, nuôi dưỡng lòng nhân hậu và ký ức cộng đồng qua từng giọt mưa, làn gió, hạt đất quê…

Ở tầng sâu của cảm xúc, thi ca chạm đến phần linh hồn của văn hóa dân tộc, nơi tình yêu quê hương trở thành một hình thức của lòng yêu nước, và nỗi nhớ làng hóa thành bản lĩnh tồn tại của con người Việt giữa bao dâu bể thời gian. Nguyễn Tiến Lập viết: “Ta về với những trang thơ/ Giông chiều lặn vào xa vắng/ Nẻo làng bao mùa mưa nắng/ Cõi người năm tháng thiên di” (Thiên di cõi người). Những câu thơ ấy như một lời tự sự trầm tĩnh của người trở về sau bao mùa phiêu lãng. “Ta về” không chỉ là trở lại không gian vật lý của làng quê, mà là hành trình tìm lại cội nguồn tinh thần, nơi những “mùa mưa nắng” trở thành dấu chỉ của thời gian, còn “nẻo làng” là nơi lưu giữ căn tính Việt. Trong cái nhìn ấy, thi ca của Nguyễn Tiến Lập dựng nên một bản đồ tinh thần của người Việt, từ cánh đồng đến biển đảo, từ dòng sông đến thành cổ, nơi mỗi không gian đều lưu giữ ký ức, và mỗi nỗi nhớ đều trở thành ý thức cộng sinh giữa con người, thiên nhiên và lịch sử. Với Thiên di cõi người, ta cảm nhận được một nhịp điệu của sự trở về, không ồn ào mà lặng lẽ, không bi thương mà đằm sâu, nơi người thơ đối thoại với chính dân tộc mình bằng ngôn ngữ của ký ức và lòng tri ân.

Miên man khúc làng là bức tranh giao thoa sống động của nhiều miền văn hóa, hiện lên như một “tầng sinh quyển mở”: văn hóa làng Bắc Bộ với giọng ví dặm, hương cau thoang thoảng trong chiều làng; văn hóa Tây Nguyên với chiêng cồng, rượu cần, Ning Nơng, vang vọng như nhịp tim núi rừng; và văn hóa đô thị, nơi những triết lý về bức tường và sự im lặng len lỏi vào thơ: “Đêm nhà mồ/ khuôn mặt làng lấm lem bụi đất/ ché rượu cần lăn lóc…/…/ câu khan duềnh mắt lá/ trầm bổng cồng, chiêng” (Nhà mồ). Tây Nguyên trong thơ ông không chỉ là cảnh vật mà trở thành không gian linh hồn, nơi con người, đất đai và thần linh cùng chung nhịp sống: “tượng có từ thưở trai gái biết thương nhau/ thuở khai sông mở cõi/ tượng muôn đời là hồn thiêng của rừng, của núi/ mộc mạc đơn sơ/ và bền chắc/ như cột Klao găm vào lòng đất/ găm vào kí ức/ găm vào trái tim quê/ vĩnh cửu trường tồn” (Tượng làng). Trong từng câu chữ, nhịp chiêng, hương rượu và bóng tượng, miền núi hiện lên vừa mộc mạc vừa thiêng liêng, vừa trần thế vừa siêu thoát, tạo nên một không gian văn hóa sống động, nơi thời gian và ký ức hòa vào nhịp sống của con người, giữ nguyên hồn cốt của quê hương.

Với Miên man khúc làng, ta nhận ra thơ Nguyễn Tiến Lập không chỉ viết về làng quê, thiên nhiên hay lịch sử, mà còn là dòng chảy văn hóa lặng lẽ, nơi người viết gửi gắm niềm thương mến dành cho đất và người. Thơ ông không cất lời lớn lao, mà kể lại những điều nhỏ bé nhưng sâu thẳm. Ông chọn những từ gần gũi với đời sống “đất”/ “gió”/ “sông”/ “làng” nhưng qua cách sắp đặt và nhịp điệu, chúng trở nên lung linh, thấm đẫm linh hồn Việt. Thơ ông giàu tính khẩu ngữ mà vẫn giữ phẩm chất triết lý, bởi sau mỗi lời nói giản dị luôn ẩn chứa một tầng suy tưởng sâu sắc. Ông biết tiết chế ngôn từ, để cả “im lặng” cũng trở thành một dạng tiếng nói, tiếng nói của nội tâm.

Đọc Miên man khúc làng, ta nghe tiếng chày giã gạo, tiếng gió lướt qua đồng, tiếng chuông xa và cả nhịp im lặng của lòng người. Tập thơ như làn khói lam cuối chiều, như tiếng gà cất lên giữa buổi vắng. Không phô trương, không cầu kỳ, nhưng đủ để khi khép trang, khúc làng miên man vẫn ngân mãi trong lòng, vừa đủ để nhắc nhở ta về sức mạnh của ký ức, tình người và thơ ca.

ĐÔNG HÒA

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Nước mắt thời hậu chiến

Đọc tập thơ Tạ lỗi với mây xanh (NXB HNV, 2024) của Mai Thìn, có thể thấy, những bài thơ hay nhất đều nói về chiến tranh, đọng lại nỗi buồn, thành dòng nước mắt người ở lại thời hậu chiến…

Âm nhạc Bình Định, 50 năm ngân vang khúc hát

Hiện nay, Chi hội Âm nhạc tỉnh Bình Định có số lượng hội viên gần 60 người, trong đó có 16 người sinh hoạt ở Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam. Lực lượng này đang tiếp tục sự nghiệp âm nhạc…