Thấp thoáng bóng diêu bông

(VNGL – Văn học trong nhà trường). LTS: Từ năm 2018, chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn chuyển hướng từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất, chú trọng vào việc cung cấp kiến thức thể loại như là chìa khóa để cho học sinh khả năng “mở” những cánh cửa đến những chân trời văn học đa dạng, phong phú; mở ra khả năng tư duy tích cực và rèn luyện nhân cách. Các kĩ năng Đọc, Viết, Nói và Nghe được hình thành dựa trên những đặc trưng thể loại văn học; những kiểu, dạng bài cụ thể. Học sinh đóng vai trò chủ động trong việc nắm bắt, khám phá vẻ đẹp của văn chương, giáo viên là người định hướng, dẫn dắt…
Tạp chí Văn nghệ Gia Lai mở chuyên mục “Văn học trong nhà trường” hy vọng là điểm kết nối quá trình “học” và “thực hành”, biến những trải nghiệm, cảm xúc, suy tư sâu lắng của người viết và người đọc về thế giới văn chương thành những cuộc đối thoại, những lời đồng vọng ý nghĩa với tinh thần thắp sáng ngọn lửa của “vẻ đẹp” và “vẻ sáng” văn chương từ trường học ra cuộc đời…

Bài thơ mở đầu bằng một thi ảnh gợi cảm “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng”, âm hưởng câu thơ thủng thẳng mà da diết, nét duyên xưa đất Kinh Bắc làm sống dậy cả một vùng tâm thức rồi cứ thế ngân nga thành lời thơ Hoàng Cầm.

Bước chân người con gái xúng xính sóng váy thướt tha, vừa kiêu sa vừa gần gũi. Hành động “thẩn thơ đi tìm” ẩn tính “kế thừa” – có lẽ chị đã tìm đủ lâu mà chưa thấy nên thoáng buồn lo vơ vẩn trong ánh mắt, trong dáng người. Điều gì khiến một người con gái tha thiết đi tìm lá diêu bông? Vì tò mò một tên gọi huyền hoặc mầu nhiệm mà mình có lẽ chưa bao giờ nhìn thấy, hay là khao khát phập phồng cháy bỏng về tình yêu còn thấp thoáng ở mặt đất chân mây nào? Dù lý do gì đi chăng nữa, lá diêu bông trong tâm thức chị dường như biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc vuông tròn, cho tình duyên may mắn của đời người con gái. Đặt trong không gian mùa đông, đồng chiều, cuống rạ trơ trụi hoang vắng giá lạnh, hình ảnh chị hiện lên vừa nhỏ bé tội nghiệp, vừa chan chứa niềm thương trong ánh mắt dõi theo đầy lo lắng, quan tâm của em. Trong cái mênh mông của không gian, cái hư ảo của lá diêu bông, trong hữu hạn của thời gian chiều tàn tạ, trong nỗi bất lực, bồn chồn, khao khát hạnh phúc, lời thách đố định mệnh của chị đã gắn vào đời em: “Đứa nào tìm được lá diêu bông/ Từ nay ta gọi là chồng!”.

Bài thơ mở ra kết cấu tầng bậc – tăng tiến trong hành trình tìm lá của em: Hai ngày em tìm thấy lá – chóng vánh, mong mỏi và hấp tấp, mùa đông sau em tìm thấy lá – kỳ công cẩn trọng, hồ hởi, ngày cưới chị em tìm thấy lá – chới với, bước hụt trước cột mốc quan trọng của đời người con gái và cả nỗi đau ám ảnh, tuyệt vọng của người con trai khi người thương đi lấy chồng, cũng là thử thách bước ngoặt của tình thế “ván đã đóng thuyền”. Liệu em còn bền gan kiên nhẫn, liệu có còn kịp chuyến đò chị sang ngang? Chị ba con em tìm thấy lá – điểm chót cùng mang tính ước lệ, đời chị còn chi hy vọng, nhưng em vẫn khôn nguôi đuổi tìm bóng lá, trái tim chị. Đó là bi kịch của mối tình vô vọng ngay từ đầu đã mang những dự cảm bất trắc. Khoảnh khắc “Từ thuở ấy/ Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể” cực tả nỗi đau vụn vỡ tái tê trong lòng, thương mình, xót người em đi đến tận cùng nỗi cô đơn và sự bất đắc chí. Từ thuở ấy, chiếc lá vô hình, vô hiện lửng lơ treo giữa cuộc đời mà một lần dấn thân là cả một đời dang dở. Âm thanh tiếng gió, âm thanh tiếng lòng đồng vọng giữa thẳm xa. Lời của gió thầm thĩ, hay em mượn ngọn gió bay ngang khắp nẻo nhân gian mà tìm? Thơ của Hoàng Cầm viết về “chị”, không ít lần đặc tả tính chất vô vọng, hư ảo ấy như một điểm về, một điểm cuối kết đắng chát chưa bao giờ hoàn tất. Nên em cứ nhặt, cứ tìm, cứ gọi trong không gian mênh mông gió quê vi vút, ù ù, trong tan tác “võng mây trôi”, trong thời gian vô định “không thu không”, “không canh gà”, thời gian của mai sau, của chới với đợi chờ “em gọi đôi”.

Nếu trong Cây tam cúc, Cỏ bồng thi, Quả vườn ổi – bóng dáng chị hiện lên qua lời kể của em có phần chìm nhạt thì Lá diêu bông rõ nét hơn. Cái hấp dẫn trong lời tự sự của em là đồng hiện hai nỗi niềm tâm trạng, hai khát vọng, mà điểm nối kết là hình tượng lá diêu bông.

Em đi từ sự hấp tấp nóng vội cho kịp, cho được thì chị đi từ hoài nghi và dần dần phủ nhận. Em đeo đuổi hành trình bền bỉ, không từ giã dẫu đã bị từ chối, cự tuyệt. Chị dần ngộ ra và thấm thía đắng cay trong cục diện “ván đã đóng thuyền”. Những khát khao hạnh phúc, mộng đẹp tình yêu thời con gái, theo thời gian như nước chảy mây trôi, xa vời đầy ảo vọng. Hành động “chau mày”, như thể biết rõ “lá diêu bông”, hay lá diêu bông trong chị được hình dung khác, hay từ đầu đã linh cảm diêu bông thật… phiêu bồng. Hành động “trông nắng vãn bên sông”, chiều mùa đông năm sau đã thấy nét nghi hồ, nhạt phai trong hy vọng, vẻ buồn sầu lơ đễnh lẫn trong ngóng ước. Lần thứ ba em tìm thấy lá, “Chị cười xe chỉ ấm trôn kim”. Câu thơ thực độc đáo, phảng phất chất thơ Hoàng cầm – đi xa hơn sự gợi cảm mà không đánh mất phần tinh tế. Hành động “Chị cười”, “xe chỉ” thật ý vị. Nó gợi làn điệu dân ca quan họ “xe chỉ luồn kim”, mượn sắc dân dã mộc mạc nồng đượm để hé lên nét tươi tắn rạo rực hạnh phúc lứa đôi “lá thắm chỉ hồng”. Nhưng giấu sau nụ cười là bao tâm cảm gói ghém: có nụ nào buồn tiếc thời con gái, có nụ nào bên ngoài cười gượng mà trong xót lòng, nụ nào vu vơ thả theo mộng ước xa xôi, nụ nào bẽn lẽn nỗi ấm niềm êm. Hình ảnh đó khiến ta chợt liên tưởng đến “người đàn bà ngồi đan” trong thơ Ý Nhi. Chị chăm chú ngồi đan, cả thế gian thu lại trong vòng quay cuộn len và đôi tay không nghỉ, không cảm xúc, nhưng ngàn thước phim tâm trạng đang diễu qua, đang tua chậm, phong phú như cuộc đời, trầm mặc đa đoan tựa nỗi lòng phụ nữ. Lần thứ tư em tìm thấy lá, là lúc chị ba con. Câu thơ dùng lối nói định lượng thời gian thật dài, thời gian của phôi pha thanh xuân đời người: ba con – đã qua tuổi “mòn con mắt”, đã “cổ ngẳng, răng vàng”. Em vẫn mải miết tìm lá diêu bông, chỉ có điều dường như trong chị, thời gian đã làm nhòa ước vọng, đã xát vào lòng người trăm đắng nghìn cay, đã thấm thía cho cùng phù vân chìm nổi. “Xòe tay phủ mặt chị không nhìn”! Thời gian đã thắng thế chăng? Thời gian cho người ta trải nghiệm về những hư huyễn ảo vọng đời người, lá diêu bông chị tìm kiếm dường cũng đã bạt phai trong nắng gió cuộc đời.

Từ thuở đó, em cầm chiếc lá, không còn ai trả lời có phải lá diêu bông. Em tiếp tục hành trình tìm kiếm, dường như không còn cho chị mà cho chính em, trong khao khát và hy vọng khôn cùng, trong cả cô đơn và tuyệt vọng không lối thoát. Chỉ còn âm thanh tiếng gió xa xôi, vi vút đồng quê gió vọng tiếng lòng “diêu bông hỡi!”, “ới diêu bông!”.

Bài thơ phảng phất chất “tự truyện”, theo lối tự sự thở than của người không được làm chủ tình yêu, người suốt đời lỡ uống say một ánh mắt, một nét nhìn mà viết đời mình thành bài thơ chiếc lá. Chiếc lá tình yêu gọi tên từ tiềm thức, ám ảnh tâm trí, dẫn bước truy tìm, dẫu biết lá phiêu diêu, vô định. Sự tình trong thơ chỉ là mạch nổi, là cái cớ. Cảm xúc song hành của chủ thể trữ tình “em” và nhân vật “chị” qua mạch tự sự mới là mạch chính. Như hai cá thể tâm trạng độc lập, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ, mong cầu về “lá diêu bông”, về hạnh phúc và sự kiếm tìm. Bài thơ vừa đậm phong cách và cảm hứng tình yêu quen thuộc của thơ Hoàng Cầm, vừa mang đậm dấu ấn thơ tượng trưng siêu thực. Tất cả ý nghĩa của hình tượng lá diêu bông và những cảm xúc tâm trạng của chị đều chỉ có thể đoán định mà không thể xác quyết, lối kể theo trật tự tuyến tính nhưng không có một cái kết và mở đầu chính xác đã tạo khoảng trống, khoảng trắng trong hình ảnh và suy ngẫm.

Tình yêu là điều tuyệt vời khiến con người luôn truy cầu, dở dang trong tình yêu khiến người day dứt, không muốn từ bỏ, không muốn buông xuôi. Nhưng cố chấp kiếm tìm dẫu biết là vô vọng, thì đó là định mệnh. Diêu bông đã trở thành chiếc lá định mệnh của đời thơ Hoàng Cầm. Hơn thế, nó mở rộng biên độ ra khỏi địa hạt của mối tình côi thành biểu tượng của hạnh phúc và nỗi đau, khát khao và vô vọng, của cõi thực và ước mơ, những đối cực vĩnh hằng của tình yêu con người. Bóng lá chơi vơi, ai người gọi tên, ai kẻ kiếm tìm, hiển hiện trong tâm trí hay thấp thoáng cuối biển đầu non? Biết đâu có một ngày, chiếc lá huyền nhiệm trên tay người trở về, vỡ oà tên gọi lá diêu bông!

NGUYỄN THỊ KIM THOA
(Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn)

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Bà Pelagie

Bà ấy là một người phụ nữ năm mươi tuổi, tóc trắng, có phong thái như bà hoàng. “Bà Pelagie”, họ gọi bà thế dù bà không kết hôn…

Mảnh ghép

Minh về tới ngôi nhà cũ lúc xế chiều. Tiếng sóng biển quen thuộc từ xa vọng lại nghe đến nao lòng. Lòng Minh rưng rưng xúc động…

Con viết cho cha trong một chiều lặng gió

Cha chẳng bao giờ nói về yêu thương
chỉ lặng lẽ dậy sớm hơn bình minh con biết
trước khi tiếng gà cất giọng
trước khi cánh đồng trổ chín
bàn tay cha đã nắm cả vụ mùa

Tự khúc chiều quê…

Phía đó nắng chiều rơi khắp lối
Bếp nhà ai giăng khói nồng nàn
Trong mơ đắm bước về rất vội
Bầy dế kêu vọng tiếng thì thầm.