Bà Pelagie

(VNGL – Văn học nước ngoài).

1.
Lúc cuộc chiến tranh nổ ra, ở Cote Joyeuse (Canada) có một tòa biệt thự đường bệ bằng gạch đỏ hình dáng trông như đền Pantheon. Một khu rừng cây sồi tráng lệ bao quanh nó. Ba mươi năm sau, chỉ những bức tường dày còn trụ lại được với màu gạch đỏ xám xịt hiện ra đây đó qua một lớp dây leo rối rắm bám chặt bên trên. Những cây cột tròn khổng lồ vẫn còn nguyên vẹn; trong chừng mực nào đó lớp đá phiến lát sảnh chính và mái cổng cũng vậy. Đi một mạch khắp Cote Joyeuse cũng không thấy ngôi nhà nào trang nghiêm đến thế. Ai cũng biết điều đó, cũng như họ biết Phillippe Valmet đã tốn 60.000 đô la để xây nó hồi năm 1840. Không ai có thể quên đi sự thật đó hết, miễn là con gái ông ấy là Pelagie còn sống.

Bà ấy là một người phụ nữ năm mươi tuổi, tóc trắng, có phong thái như bà hoàng. “Bà Pelagie”, họ gọi bà thế dù bà không kết hôn, mà cô em gái Pauline cũng vậy, một đứa trẻ trong mắt bà Pelagie; một đứa trẻ ba mươi lăm tuổi. Hai người sống với nhau trong ngôi nhà gỗ ba phòng, gần như khuất trong bóng đống đổ nát. Họ sống vì một mơ ước của bà Pelagie, đó là xây lại ngôi nhà cũ. Sẽ thật đáng thương khi kể ra cuộc sống thường ngày của họ kiệt quệ ra sao để hoàn thành cái kết này; những tờ tiền giấy được tiết kiệm trong ba mươi lăm năm và mớ xu lẻ được dành dụm ra sao; thế mà vẫn chưa dồn được đến phân nửa! Nhưng bà Pelagie vẫn cảm thấy chắc chắn mình còn sống được thêm 20 năm nữa và hy vọng nhiều hơn nữa vào em gái mình. Và ai biết chuyện gì có thể diễn ra trong hai mươi hay bốn mươi năm nữa đây? Vào những buổi chiều dễ chịu, hai người thường uống cà phê đen, ngồi dưới mái cổng lát đá với mái vòm là bầu trời xanh Louisiana. Họ thích ngồi đó trong im lặng chỉ với nhau và với những con thằn lằn sặc sỡ, tọc mạch làm bầu bạn, nói chuyện về thời xưa cũ và lên kế hoạch cho tương lai; trong khi đó những cơn gió nhẹ khuấy động mớ dây leo tả tơi trên cao, giữa những cây cột nơi cú mèo làm tổ.

“Mình không bao giờ có thể mong mọi thứ được như xưa hết Pauline”, bà Pelagie nói, “có lẽ những cây cột cẩm thạch của phòng khách sẽ phải bị thay thế bởi cột gỗ thôi, còn chân nến pha lê thì nên bỏ đi. Em sẽ bằng lòng vậy chứ Pauline?”.

“Ồ vâng thưa chị, em sẽ bằng lòng làm vậy”.

Lúc nào cũng là, “Vâng, thưa chị”, hoặc “Không, thưa chị”, “Cứ làm theo ý chị đi”, với cô Pauline bé nhỏ tội nghiệp. Bởi cô nhớ được gì về cuộc sống xưa cũ và sự huy hoàng xưa cũ đó chứ? Chỉ là một tia sáng yếu ớt đây đó, chỉ biết được phân nửa về một cuộc sống tuổi trẻ không phẳng lặng, và rồi một sự sụp đổ to lớn. Thế có nghĩa là chiến tranh ở gần bên, cuộc nổi dậy của nô lệ, mớ hỗn loạn kết thúc trong biển lửa mà qua nó cô được sinh ra an toàn trong vòng tay mạnh mẽ của Pelagie và được mang tới ngôi nhà gỗ súc giờ vẫn là nhà của họ. Anh em trai của họ, Leandre, biết nhiều về mọi chuyện đó hơn Pauline và ít hơn Pelagie. Anh đã để việc quản lí cái đồn điền rộng lớn với tất cả những kỷ niệm và truyền thống của nó lại cho chị gái mình và dời vào sống ở thành phố. Đó là nhiều năm trước rồi. Giờ việc kinh doanh của Leandre thường xuyên buộc anh phải đi xa nhà dài ngày, còn đứa con gái mồ côi mẹ của anh lại sắp đến ở với các cô mình ở Cote Joyeuse. Họ vừa nói về chuyện đó vừa nhấp từng ngụm cà phê đen dưới mái cổng đổ nát. Cô Pauline cực kì phấn khích; màu đỏ ửng run rẩy trên gương mặt nhút nhát xanh xao của cô cho thấy điều đó; và cô cứ nhìn những ngón tay gầy gò của mình hết gần rồi xa không ngừng.

“Nhưng mình sẽ làm gì với Petite đây chị? Mình sẽ cho nó ngủ ở đâu? Mình sẽ làm sao để làm nó vui? Ôi trời ơi!”.

“Con bé sẽ ngủ trong một chiếc giường nhỏ trong căn phòng cạnh phòng mình”, bà Pelagie đáp, “và sống như mình. Nó biết mình sống ra sao và mục đích sống của mình mà; cha nó đã cho nó biết rồi. Nó biết mình có tiền và có thể tiêu hoang phí nếu mình chọn làm vậy. Đừng băn khoăn gì hết Pauline; hãy hy vọng Petite là một người nhà Valmet đích thực”.

Rồi bà Pelagie đứng lên với vẻ khoan thai oai vệ và đi thắng yên ngựa vì lúc này bà phải làm chuyến đi dạo cuối ngày như thường lệ qua cánh đồng; còn cô Pauline chầm chậm lách qua đám cỏ lộn xộn hướng về nhà.

Sự xuất hiện của Petite mang theo bầu không khí hăng hắc của một thế giới bên ngoài chỉ được biết đến một cách mờ nhạt là một cú sốc đối với hai người đang sống cuộc đời trong mơ của họ. Cô bé cao bằng bà cô Pelagie của mình rồi, với đôi mắt đen phản chiếu niềm vui như một vũng nước tĩnh lặng phản chiếu ánh sao; còn gò má đầy đặn của cô đượm màu như cây bách nhật hồng. Cô Pauline hôn cô bé và run rẩy. Bà Pelagie nhìn vào mắt cô bằng cái nhìn thấu suốt thứ dường như là để tìm kiếm điểm giống với quá khứ trong cuộc sống hiện tại. Và rồi họ dọn chỗ dành cho cuộc đời trẻ trung này.

2.
Petite đã quyết tâm cố gắng sống hòa hợp với cuộc sống eo hẹp lạ lẫm cô biết đang chờ đợi mình ở Cote Joyeuse. Lúc đầu nó cũng khá yên ổn. Thỉnh thoảng cô đi theo bà Pelagie ra đồng để ghi nhớ việc bông mở vỏ, chín và chuyển màu trắng ra sao; hoặc đếm số trái bắp trên những thân cây khỏe mạnh. Nhưng cô bé thường ở với cô Pauline hơn, giúp dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện huyên thuyên về quá khứ ngắn ngủi của mình hoặc khoác tay nhau cùng đi bộ với người phụ nữ lớn tuổi hơn mình dưới hàng rêu rủ xuống từ những cây sồi khổng lồ. Dáng đi của cô Pauline dần trở nên rất sôi nổi mùa hè năm đó, và mắt cô thỉnh thoảng lại sáng ngời như mắt chim, trừ khi Petite không ở cạnh cô ấy thôi, lúc đó nó mất hết cả sinh khí ngoại trừ vẻ ngóng chờ bứt rứt. Cô bé cũng có vẻ mến cô lắm và trìu mến gọi cô là cô Nhỏ. Nhưng khi thời gian trôi qua, Petite dần trở nên lặng lẽ – không phải bơ phờ mà là tư lự và cử động chậm chạp. Rồi gò má cô bắt đầu nhợt nhạt tới khi chúng nhuốm màu như chùm hoa bách nhật trắng mọc trong đống đổ nát.

Một ngày nọ khi cô bé ngồi dưới bóng hai người cô, và cầm lấy ở mỗi người một tay, cô nói: “Cô Pelagie này, cháu phải nói với cô một chuyện, cô và cô Nhỏ nữa”. Cô bé nói chậm nhưng rõ ràng và kiên quyết. “Cháu yêu cả hai người – xin hãy nhớ rằng cháu yêu cả hai người. Nhưng cháu phải rời xa hai người thôi. Cháu không thể sống lâu hơn ở Cote Joyeyse được nữa”.

Một cơn co thắt tràn qua thân hình thanh nhã của cô Pauline. Petite có thể cảm thấy cơn co giật của nó qua những ngón tay dẻo dai của mình đan vào ngón tay cô. Bà Pelagie vẫn điềm tĩnh và bất động. Không một con mắt trần tục nào có thể nhìn thấu suốt đến mức thấy được cảm giác hài lòng mà tâm hồn bà cảm thấy. Bà nói: “Ý cháu là sao Petite? Cha cháu đã gửi cháu đến chỗ chúng ta, và ta chắc chắn ông ấy muốn cháu ở lại”.

“Cha yêu cháu cô Pelagie à, và nếu ông biết thì ông sẽ chẳng muốn vậy đâu. Ôi!”, cô bé tiếp tục với một cử động bồn chồn, “như thể có một sức nặng nào đó dồn ép cháu ngược về đây vậy; cháu phải sống một cuộc đời khác – cuộc đời cháu đã sống trước kia. Cháu muốn biết những thứ đang diễn ra ngày này qua ngày khác trên khắp thế giới và nghe chúng nói chuyện. Cháu muốn nghe nhạc, đọc sách, có bạn bè. Nếu không biết đến cuộc sống nào khác ngoài cảnh thiếu thốn này, cháu nghĩ chuyện sẽ khác. Nếu phải sống cuộc sống này cháu sẽ tận hưởng nó. Nhưng cháu không phải làm vậy; và các cô biết đấy, cô Pelagie, cô không cần phải làm vậy. Đối với cháu”, cô thì thầm nói thêm, “đó là một tội lỗi chống lại chính cháu. Ôi cô Nhỏ ơi! Cô Nhỏ làm sao thế?”.

Không sao cả, chỉ là một cảm giác hơi choáng váng sẽ sớm qua đi thôi. Cô khẩn khoản xin họ đừng để ý nhưng họ vẫn mang cho cô chút nước và quạt cho cô bằng một chiếc lá cọ cảnh. Nhưng tối hôm đó trong căn phòng tĩnh lặng, cô Pauline khóc nức nở không thể nào an ủi được. Bà Pelagie nắm lấy cánh tay cô.

“Pauline, em Pauline của chị à”, bà khẩn khoản nói, “chị chưa bao giờ thấy em thế này hết. Em không còn thương chị nữa sao? Chúng ta đã chẳng sống với nhau vui vẻ sao?”.

“Ôi có chứ thưa chị”.

“Có phải vì Petite sắp đi không?”.

“Phải chị à”.

“Thế thì con bé thân với em hơn chị rồi!”, bà Pelagie nói với vẻ oán giận rõ ràng. “Hơn chị, người đã ôm em và sưởi ấm cho em trong tay vào cái ngày em ra đời; hơn mẹ em, cha em, chị gái em, hơn mọi thứ có thể yêu thương em. Pauline à, đừng nói với chị thế nhé”.
Cô Pauline cố nói qua cơn nức nở. “Em không giải thích được chuyện đó với chị đâu. Bản thân em còn không hiểu nữa là. Em yêu chị như hồi giờ vẫn vậy – như yêu Chúa. Nhưng nếu Petite đi chắc em chết mất. Em không hiểu nổi – giúp em với chị ơi. Con bé như một vị cứu tinh, như một người đến nắm lấy tay em và dẫn em đi đến nơi em muốn đi vậy”.

Bà Pelagie đã ngồi cạnh giường trong bộ áo ngủ và mang dép lê từ nãy đến giờ. Bà cầm bàn tay em gái mình đặt trên giường và vuốt mượt mái tóc nâu mềm mại của cô. Bà không nói một lời, và khoảng lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng nức nở liên hồi của cô Pauline.
Bà Pelagie có đứng lên một lần để pha một thứ nước với tinh dầu hoa cam cho em gái mình như bà vẫn làm cho một đứa trẻ hoảng sợ và cáu kỉnh. Phải gần một giờ sau bà Pelagie mới nói chuyện lại. Rồi bà nói:

“Pauline, giờ em phải thôi khóc lóc và ngủ đi. Em sẽ làm mình bệnh mất. Petite sẽ không đi đâu. Em có nghe chị nói không đấy? Em hiểu không? Nó sẽ ở lại, chị hứa mà”.

Cô Pauline không thể hiểu rõ ràng nhưng cô có niềm tin to lớn vào lời của chị gái mình và dịu lòng đi bởi lời hứa hẹn cùng bàn tay dịu dàng, mạnh mẽ của bà Pelagie chạm vào mình, cô thiếp đi.

3.
Khi thấy em gái đã ngủ rồi, bà Pelagie đứng dậy không một tiếng động và đi ra ngoài dãy hành lang hẹp có mái che thấp. Bà không nán lại đó mà với dáng đi hấp tấp và khích động, bà băng qua khoảng đất chia tách ngôi nhà gỗ và đống đổ nát. Đêm nay không tối lắm vì bầu trời trong trẻo và trăng sáng rực rỡ. Nhưng sáng hay tối thì cũng có gì khác với bà Pelagie đâu. Đó không phải là lần đầu bà lẻn đi tới đống đổ nát vào ban đêm khi toàn bộ đồn điền đều đang ngủ; nhưng trước giờ bà chưa từng tới đó với trái tim gần như vỡ vụn đến vậy. Bà đang đi tới đó lần cuối để mơ giấc mơ của mình, để thấy những ảo ảnh mà cho đến nay đã thúc giục bà cả ngày lẫn đêm, và để nói lời chào tạm biệt chúng.

Minh họa: Nguyễn Chơn Hiền

Giấc mơ đầu tiên chờ bà ngay cổng vào; một ông lão tóc trắng tráng kiện la rầy bà vì về nhà quá muộn. Nhà đang có khách. Những vị khách từ thành phố và từ những đồn điền gần đó. Vâng, bà biết là muộn chứ. Bà đã ra ngoài với Felix và họ không để ý thời gian trôi nhanh ra sao. Felix kia kìa, anh ấy sẽ giải thích mọi chuyện. Anh ấy đứng đó bên cạnh bà, nhưng bà không muốn nghe điều anh ấy sẽ nói với cha bà. Bà Pelagie đã ngồi xuống cái băng ghế nơi bà và em gái mình thường xuyên đến ngồi. Bà quay lại nhìn chằm chằm qua cái lỗ hổng lớn toác ra trên cửa sổ gần mình. Bên trong đống đổ nát sáng rực. Không phải do ánh trăng vì nó rất yếu so với một nguồn sáng khác – ánh lấp lánh của chân nến bằng pha lê mà mấy người da đen đi lại trong yên lặng và kính cẩn đang thắp lên từng cái một. Ánh lập lòe của chúng phản chiếu và lóe lên trên những cây cột cẩm thạch bóng láng mới đẹp làm sao!

Căn phòng có rất nhiều khách. Có cụ Lucien Santien đang dựa vào một cây cột và cười khi ông Lafirm kể ông ấy nghe chuyện gì đó tới khi đôi vai mập mạp của ông rung lắc. Con trai ông Jules đi cùng ông – Jules là người muốn cưới bà. Bà cười to. Bà tự hỏi không biết Felix đã nói cha bà biết chưa. Có anh chàng Jerome Lafirme đang chơi cờ đam trên trường kỷ với Leandre. Bé Pauline đứng quấy rầy họ và cản trở cuộc chơi. Leandre mắng nó. Con bé bắt đầu khóc và già Clementine da đen, bảo mẫu của nó ở cách đó không xa đi khập khiễng qua căn phòng để bế nó lên và mang đi khỏi đó. Con bé nhạy cảm quá! Nó chạy lóc cóc lòng vòng và tự lo cho bản thân tốt hơn hai năm trước lúc nó ngã xuống sàn tiền sảnh lát đá và làm nổi lên một cục u to tướng trên trán. Pelagie đau lòng và tức giận lắm; bà đặt mua thảm và da bò rừng Bắc Mỹ để trải trên đá lát một lớp dày tới khi bước đi của cô bé vững chãi hơn. “Nó không được làm Pauline đau”. Bà đi qua chỗ kia trong phòng ăn nơi cha bà ngồi với một nhóm bạn uống rượu. Như thường lệ họ đang nói chuyện chính trị. Bà nghe họ nói từ “chiến tranh” hơn một lần. Họ nói đúng! Tiếng đại bác bắn ở Sumter đã cuộn qua các bang miền Nam và tiếng dội của nó có thể nghe thấy được khắp Cote Joyeuse. Thế mà Pelagie vẫn không tin được. Phải tới khi Felix đến chỗ bà trong căn phòng phía trên phòng ăn, nơi có những chùm hoa lăng tiêu lủng lẳng – đến để nói lời tạm biệt. Nỗi đau do những hạt nút áo bằng đồng của bộ quân phục mới màu xám của anh ấn vào da thịt mỏng manh của bầu ngực bà chưa bao giờ biến mất. Bà ngồi trên trường kỷ còn anh ngồi bên cạnh, cả hai lặng đi vì đau đớn. Căn phòng đó hẳn sẽ vẫn không thay đổi. Ngay cả chiếc trường kỷ cũng sẽ ở nguyên chỗ đó và bà Pelagie, trong suốt 30 năm đã định sẽ nằm trên đó vào cái ngày mình chết. Nhưng không có thời gian để khóc than khi kẻ thù đã tới trước cửa. Cánh cửa không có rào chắn. Giờ chúng đang nói chuyện huyên náo khắp các khách sảnh, uống rượu, đập vỡ đồ thủy tinh và pha lê, rạch các bức tranh chân dung. Một trong số chúng đứng trước mặt bà và bắt bà rời khỏi ngôi nhà. Bà tát hắn. Dấu hiệu sỉ nhục hiện lên đỏ như máu trên gò má tái nhợt của hắn mới nổi bật làm sao! Lúc này một cơn tam bành dữ dội như lửa bùng lên và những ngọn lửa đánh cho dáng hình bất động của bà gục xuống. Bà muốn cho chúng thấy một người con gái của Louisiana có thể bỏ mình trước kẻ xâm chiếm như thế nào. Nhưng bé Pauline bám vào đầu gối bà trong đau đớn vì khiếp sợ. Bé Pauline phải được cứu.

“Chúng không được làm hại bé Pauline”. Bà lại nói to – “làm hại Pauline”.

Đêm đã sắp hết. Bà Pelagie đứng dậy khỏi băng ghế vừa ngồi và nằm sấp bất động cả mấy giờ liền trên mặt đường lát đá phiến. Lúc lê mình đứng dậy bà bước đi như trong mộng tưởng. Bà vòng tay ôm những cây cột to lớn, uy nghi hết cây này tới cây khác, rồi áp má và môi vào lớp gạch vô tri vô giác. “Tạm biệt, tạm biệt!”, bà Pelagie thì thầm.

Không còn vầng trăng dẫn đường cho bước chân bà băng qua con đường mòn quen thuộc về ngôi nhà gỗ. Ánh sáng sáng nhất trên trời là sao Kim đu đưa la đà đằng đông. Lũ dơi đã thôi không đập cánh bay quanh đống đổ nát nữa. Ngay cả con chim nhại vẫn hót líu lo hàng giờ liền trên cây dâu tằm già cũng đã tự hát ru mình ngủ. Đó là giờ tối nhất trước khi ban ngày phủ lên mặt đất. Bà Pelagie đi vội qua lớp cỏ ướt dính chân, hất đám rêu nặng trịch quét qua mặt mình qua một bên, đi tiếp về phía ngôi nhà – về phía Pauline. Bà không hề nhìn lại đống đổ nát trầm tư như một con quái thú khổng lồ – một đốm đen trong bóng tối vây quanh nó lần nào nữa.

4.
Hơn một năm sau sự biến đổi mà nơi ở xưa kia của nhà Valmet đã trải qua là thứ được nói đến và gây ngạc nhiên ở Cote Jeyeuse. Hẳn đã có người tìm kiếm đống đổ nát trong vô ích; nó không còn ở đó nữa, ngôi nhà gỗ súc cũng vậy. Nhưng ở không gian rộng mở ngoài kia, nơi mặt trời tỏa sáng và gió thổi rì rào là một cấu trúc cân đối được tạo ra bằng gỗ lấy từ những khu rừng trong bang. Nó nằm trên một nền gạch vững chắc. Leandre ngồi hút điếu xì gà buổi chiều của mình ở một góc của dãy hành lang tươi vui và đang nói chuyện với mấy người hàng xóm ghé thăm. Bây giờ đây sẽ là chỗ dừng chân của anh; ngôi nhà nơi chị em gái và con gái của anh sống. Khắp vườn cây và trong nhà nơi Petite đang chơi đàn dương cầm đều vang lên tiếng cười của những con người trẻ trung. Với sự nhiệt tình của một nghệ sĩ trẻ, cô rời khỏi những phím đàn đẹp tuyệt diệu đến bên cô Pauline đang đứng mê mẩn gần bên. Cô Pauline xúc động vì nhà Valmet đã được tái tạo. Gò má cô đầy đặn và gần có vẻ thanh xuân như của Petite. Càng ngày cô càng trẻ ra. Bà Pelagie đang chuyện trò cùng em trai và bạn bè của anh.

Sau đó bà quay bước đi rồi đứng lại một lúc nghe tiếng đàn của Petite. Nhưng chỉ trong phút chốc thôi. Bà tiếp tục đi vòng qua khúc cong của mái hiên nơi bà được ở một mình. Bà ở đó, người đứng thẳng, tay nắm lấy tay vịn lan can và điềm tĩnh nhìn ra xa qua cánh đồng. Bà mặc đồ đen với chiếc khăn choàng cổ lúc nào cũng gấp lại mang trên ngực. Mái tóc dày bóng mượt của bà từ trán vồng cao lên như một chiếc vương miện bằng bạc. Trong đôi mắt sâu sẫm màu của bà vẫn âm ỉ ánh lửa sẽ không bao giờ cháy bùng lên. Bà đã già lắm rồi. Dường như không phải vài tháng mà là vài năm đã đi qua đời bà kể từ cái đêm bà nói lời tạm biệt với những ảo ảnh của mình. Bà Pelagie thật tội nghiệp! Làm sao khác được chứ! Trong khi áp lực của một cuộc sống trẻ trung và tràn ngập niềm vui từ bên ngoài buộc bà phải bước ra ngoài ánh sáng thì linh hồn bà vẫn ở lại dưới bóng đống đổ nát.

Kate Chopin (1850 – 1904) là nhà văn viết truyện ngắn và tiểu thuyết người Mỹ. Bà được coi là người đi tiên phong cho các nhà văn nữ quyền. Trong vòng một thập kỷ sau khi mất, Chopin được thừa nhận rộng rãi là một trong những nhà văn hàng đầu thời của mình. Bà đặc biệt kiên định khám phá những kinh nghiệm phức tạp trong quan hệ nam nữ và đời sống gia đình… Sáng tác của bà thường gây ra tranh luận nên có nhiều truyện ngắn không được in lúc bà còn sống.

TRƯƠNG THỊ MAI HƯƠNG dịch
Nguồn: americanliterature.com

Từ khóa liên quan:

Chia sẻ

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của

0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Mảnh ghép

Minh về tới ngôi nhà cũ lúc xế chiều. Tiếng sóng biển quen thuộc từ xa vọng lại nghe đến nao lòng. Lòng Minh rưng rưng xúc động…

Con viết cho cha trong một chiều lặng gió

Cha chẳng bao giờ nói về yêu thương
chỉ lặng lẽ dậy sớm hơn bình minh con biết
trước khi tiếng gà cất giọng
trước khi cánh đồng trổ chín
bàn tay cha đã nắm cả vụ mùa

Tự khúc chiều quê…

Phía đó nắng chiều rơi khắp lối
Bếp nhà ai giăng khói nồng nàn
Trong mơ đắm bước về rất vội
Bầy dế kêu vọng tiếng thì thầm.

Ánh sáng & Hương thơm

Cơn gió lạ ở làng quê những ngày “tập kết” trôi qua rồi. Con tàu đã rẽ sóng mang Phương và bao bạn bè nhỏ tuổi đi về một chân trời xa lạ. Bờ biển Quy Nhơn lặng lại…