(VNGL – Nghiên cứu phê bình). Vùng đất An Nhơn, tỉnh Bình Định là vùng đất chứa đầy những trầm tích văn hóa. Nơi ấy được gọi một cách đầy tự hào là “đất kinh thành”, “đất hai vua”, bởi giai đoạn 1776 – 1793, một phần đất của An Nhơn bây giờ được vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cho xây dựng thành Hoàng Đế ngay trên nền móng thành Đồ Bàn của vương quốc Chămpa. Vì thế, ở bài viết này, chúng tôi tạm khu biệt không gian của thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định(*) là vùng thành Hoàng Đế để giới thiệu những tác phẩm văn học dân gian về vùng đất này.
Thành Hoàng Đế tồn tại gần 20 năm, rồi bị phế bỏ theo triều Nguyễn Nhạc, sau đó được nhà Nguyễn đổi tên là thành Bình Định. Để lưu giữ những giá trị đầy tự hào của quê hương, người dân An Nhơn đã lưu truyền nhiều bài thơ, mẩu chuyện; sáng tác nhiều câu hò, lời hát để trao gửi những tình cảm, nỗi niềm về một miền quê mà mỗi khi nhắc đến, nhiều người không khỏi bồi hồi xúc động.
Trải bao thăng trầm, có nhiều thứ đã mất đi, nhưng những sáng tác văn học dân gian đa số vẫn được lưu truyền đến nay. Đáng kể nhất là thơ ca dân gian và các giai thoại, truyền thuyết, hò đối đáp, câu thai Bài chòi… Với tấm lòng yêu quê hương, trân trọng những sáng tác của người xưa, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã cất công sưu tầm, rồi in sách, lưu giữ cho mai sau.
Giai đoạn trước 1975
Từ năm 1965, nhà thơ Quách Tấn đã viết cuốn sách Nước non Bình Định (NXB Thanh Niên, tái bản 1999) giới thiệu một cách tổng quát về đất nước, con người Bình Định với núi non, sông suối cùng các thắng cảnh, di tích, các phong tục tập quán, nghệ thuật diễn xướng mà ông gọi là những cuộc tiêu khiển, như: Bài chòi, hát Bội, hát hò, hát huê tình, nói vè… Trong cuốn sách này, mảng văn học dân gian xuất hiện nhiều trong các bài viết về các di tích, địa danh An Nhơn. Ở bài viết về con sông Côn, đoạn chảy qua An Nhơn, ông lý giải cái tên sông Quai Vạc bằng một giai thoại về việc vua Thái Đức Nguyễn Nhạc vì nghe lời thầy địa lý người Tàu mà cho đào con sông này để gây đứt long mạch, dẫn đến sụp đổ cơ đồ. Khi giải thích tên sông Thạch Yển, và địa danh Đập Đá, ông đã giới thiệu một loạt ca dao về con sông này: Em về Đập Đá quê cha,/ Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng; Anh về Đập Đá đưa đò,/ Trước đưa quan khách sau dò ý em; Anh về Đập Đá Gò Găng,/ Để em kéo vải sáng trăng một mình...
Giới thiệu thắng cảnh Bình Định, khi nói về tháp Phú Lốc, hay tháp Cánh Tiên, rồi chùa Thập Tháp, tác giả đã trích nhiều câu ca dao, câu chuyện lưu truyền ở An Nhơn như một phần minh họa xác đáng cho bài viết.
Ngoài tập biên khảo của Quách Tấn, mảng văn học dân gian An Nhơn còn xuất hiện nhiều trong các sinh hoạt dân gian: Hò giã gạo, hò giã vôi, hò đối đáp, hô Bài chòi… được các cụ ông cụ bà, các anh hiệu ứng tác, hoặc sưu tầm, học thuộc, nhưng chỉ mang tính chất truyền miệng, chứ chưa hệ thống và phổ biến rộng rãi như giai đoạn sau 1975.
Giai đoạn sau 1975
Vào những năm 80 của thế kỷ hai mươi, sinh viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn do nhà giáo Nguyễn Xuân Nhân (nguyên Chi hội trưởng Chi hội VNDG Việt Nam tỉnh Bình Định) hướng dẫn, đã có nhiều chuyến điền dã, sưu tầm trên địa bàn Bình Định và đã sưu tầm được một khối lượng khá nhiều về văn học dân gian Bình Định, trong đó có văn học dân gian An Nhơn. Kết quả các chuyến sưu tầm này đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nhân cho xuất bản trong các sách: Truyện cổ thành Đồ Bàn, Vịnh Thị Nại (NXB Thời đại, 2012); Văn học dân gian Tây Sơn (NXB Trẻ, 1999). Ngoài các mảng thơ ca dân gian, truyện dân gian, còn có nhiều giai thoại, thơ truyền miệng về võ Tây Sơn, giới thiệu một số bài thiệu về võ An Thái. Trong cuốn Võ cổ truyền Bình Định (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2021), nhà nghiên cứu Nguyễn An Pha cũng sưu tầm được khá nhiều tài liệu về võ Tây Sơn cùng những bài thơ truyền miệng về võ An Thái.

Cũng trong hai thập kỷ 80, 90 của thế kỷ 20 và khoảng 20 năm gần đây, đã có một loạt các công trình nghiên cứu sưu tầm về văn học dân gian Bình Định, như: Văn học dân gian Nghĩa Bình (Sở VHTT Nghĩa Bình, 1986); Bài chòi và dân ca Bình Định của Hoàng Chương – Nguyễn Có (NXB Sân khấu, 1997); Ca dao Bình Định của Huỳnh Triếp – Nguyễn Có – Nguyễn Danh Phương (Sở VHTT Bình Định, 1993); Vài nét văn hóa cổ truyền ở các làng quê Bình Định (Sở Văn hóa – Thông tin Bình Định, 2004); Văn nghệ dân gian Bình Định – Tác giả tác phẩm (NXB Khoa học Xã hội, 2010); Văn hóa dân gian Bình Định – sưu tầm và nghiên cứu giai đoạn 2011 – 2020 (NXB Văn hóa Văn nghệ TP. HCM, 2020)… Qua khảo sát, có thể thấy trong các công trình, xuất hiện khá nhiều mảng văn học dân gian vùng thành Hoàng Đế.
Từ khi Chi hội Văn nghệ dân gian Bình Định được thành lập, nhiều công trình nghiên cứu sưu tầm văn nghệ dân gian An Nhơn của hội viên lần lượt được công bố. Trong đó, hai cuốn sách: Văn hóa dân gian xã Nhơn Thành (NXB Khoa học Xã hội, 2004) và Làng ven thành (NXB Khoa học Xã hội, 2015) của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Mai Thìn là một bộ sưu tập khá chỉnh chu và đầy đủ về vùng đất Nhơn Thành, nằm ở phía Bắc thị xã An Nhơn. Tác giả đã giới thiệu khá kỹ lưỡng về văn học dân gian An Nhơn, về tín ngưỡng, phong tục tập quán và nhà cửa, phong thổ, nghệ thuật diễn xướng dân gian cùng nhiều lý giải về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của đất và người An Nhơn. Bên cạnh đó, cuốn Huyền tích kinh xưa – Văn hóa dân gian vùng thành Hoàng Đế (NXB Khoa học Xã hội, 2005) của hai tác giả: Nguyễn Thanh Mừng – Trần Thị Huyền Trang cũng đã tập hợp, giới thiệu một số nét tiêu biểu của mảng văn học dân gian ở vùng đất này.
Đặc biệt, mảng ca dao hò vè An Nhơn cũng được xuất hiện rải rác trong các sách: Câu hò bên sông Kôn (NXB Đà Nẵng, 2010) của hai tác giả Hà Giao – Lê Trần Tỵ; Ca dao hò vè miền Trung (Nhiều tác giả, do NXB Văn hóa Dân tộc, 2012), Ca dao Nam Trung bộ (NXB Thời đại, 2012) của Thạch Phương – Ngô Quang Hiển; Ca dao địa danh Bình Định (NXB Đà Nẵng, 2020) của nhà nghiên cứu VHDG Ngô Văn Ban…
Trong sách Miếng ngon vùng đất võ (NXB Văn hóa Thông tin, 2012), hai tác giả Nguyễn Phúc Liêm – Hà Giao đã giới thiệu nhiều mẩu chuyện dân gian, cùng những câu ca dao về các món ẩm thực độc đáo của vùng đất này: Bầu đá mà nhấm mực khô/ Có về âm phủ (cũng) đội mồ mà lên; Xa xa ít vốn nhiều lời/ Anh về bỏ vợ lấy người xa xa; Bánh xèo ngon, rỗ mặt hoa/ Chén bánh có xoáy mới ra bánh bèo; Xem mặt mà bắt hình dong/ Bánh mà không xoáy đừng hòng dẻo dai; Tôm rằng lột vỏ bỏ đuôi/ Lúa nhe giã trắng mà nuôi mẹ già. v.v…
Ngoài ra, trong các ấn phẩm tản văn, bút ký của những tác giả An Nhơn như Huỳnh Kim Bửu, Mai Thìn, Trần Duy Đức…, nhiều mảng văn hóa và văn học dân gian An Nhơn cũng được khắc họa, song thường hòa lẫn trong tổng thể văn học dân gian Bình Định.
Khảo sát các tác phẩm và công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian vùng thành Hoàng Đế cho thấy rõ tầm vóc văn hóa của vùng đất này, đồng thời giúp lý giải vì sao An Nhơn trở thành nơi sinh thành và bồi đắp nên nhiều tài thơ, nhiều nghệ sĩ lớn, làm rạng danh xứ sở. Từ thi sĩ Yến Lan của nhóm Bàn Thành Tứ Hữu, đến ba anh em Phạm Văn Ký – Phạm Hổ – Phạm Thế Mỹ, cùng nhiều gương mặt văn nghệ sĩ tiêu biểu của văn học nghệ thuật Việt Nam, tất cả đều góp phần khẳng định vị thế đặc biệt của vùng đất này trong đời sống văn hóa dân tộc.
Có thể nói, trong tổng thể văn học dân gian Bình Định, mảng văn học dân gian An Nhơn chiếm phần lớn, phong phú cả về nội dung lẫn thể loại, và đặc biệt có ảnh hưởng sâu rộng đến sáng tác văn học nghệ thuật của nhiều thế hệ tác giả về sau.
MAI THÌN
(*) Ở bài viết này, chúng tôi sử dụng tên các địa danh có từ trước 01.7.2025.



